Ảnh hưởng của Phật Giáo đến đời sống văn hoá vùng Quảng Nam

1.3.4. Những  di tích  còn lại của  Chăm Pa  tại Mỹ  Sơn:

Khu di tích văn hóa Mỹ Sơn thuộc địa bàn xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 70km về phía Tây Nam, khu đền tháp Mỹ Sơn nằm trong một thung lũng kín đáo, có đường kính chừng 2km, xung quanh là đồi núi.

Cho đến thời kỳ du khách thế giới đang có phong trào đi tìm đến các địa chỉ  du lịch tiên phong vào Việt Nam, cái tên Mỹ Sơn đã nổi lên như một phát hiện độc đáo. Nằm trong một thung  lũng hoang vắng phủ kín cây rừng, mấy chục ngôi đền tháp nằm san sát nhau đổ nát vì bom đạn chiến tranh tàn phá, câm lặng và bí ẩn nhưng người ta có thể hình dung ra sự bề thế uy nghi và không  khí  tâm linh huyền bí của  một  rừng các ngọn tháp lớn nhỏ vào thời huy hoàng xa  xưa  kia.

“Qua những bia ký, người  ta biết được vào những thế  kỷ V –VII , người  Chăm đã bắt đầu xây dựng nhiều đền tháp thờ cao đẹp, bia ký cho biết ôngVua Bhadravaman đã xây dựng đền tháp thờ vào thế kỷ thứ V tại thánh địa Mỹ Sơn. Nhưng  đến thế kỷ  sau điện thờ  này bị cháy trong  một  cơn hỏa  hoạn. Đến các thế kỷ thứ VII –VIII người  Chàm đã  khôi phục  lại  đền thờ  này  và đặt cho nó một  cái  tên mới Sambubhadresvara (sambu – tên vua, Bhadervara – một tên gọi  thần siva ), sau đấy  đến thời vua Vikratavarman (657 -689 ) đã tô điểm thêm cho Mỹ Sơn và chỉ vào thời kỳ này, chúng ta  mới có những chứng cứ đầu tiên về nghệ thuật Chămpa, rủi thay kiến trúc thời vua Vikrantavaram không  còn, nhưng  những mãng trang trí kiến trúc còn lại như cột, mi cửa, của phế tích tại Mỹ Sơn chứng tỏ  nơi đây đã  từng  có  một  ngôi tháp thật sự”. [7,31]

Nhờ bia ký mà ngày nay chúng ta biết được người đầu tiên lập nên thánh  địa Mỹ Sơn là Bhadravarman I này, các nhà khoa học mới tìm ra tên được viết bằng  chữ phạn của ông, theo các nhà nghiên cứu đó chính là Phạm Phật nói trong các thư tịch cổ Trung Quốc (43), tên Vua được ghi bằng chữ phạn đã chứng tỏ những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đã để lại dấu ấn sâu đậm ở nước Chămpa vào thế kỷ thứ IV. Tôn giáo chính thống của vua chúa Chămpa chủ yếu là thờ thần Siva và các thần Ấn Độ khác. Bhadravarman đã dựng đền thờ Bhadresvara ở  Mỹ Sơn và dâng cúng vùng đất này trở thành thánh  địa  của  cả vương  quốc Chămpa cho vị  thần tối  thượng  này.

“Dưới thời vua IndravarmanII (854 -893), đức Vua lập kinh đô lấy tên là Indrapura (tỉnh  Quảng  Nam) khôi phục quan hệ tốt với Trung Quốc và trong  triều  đại này các nhà sử  học Trung  Quốc bắt  đầu gọi  nó  bằng cái  tên thứ  ba là Chang Cheng, có nghĩa  là thành phố của  Chan, theo tiếng  phạn là Champapuro. Đây là  một  triều đại thanh  bình nổi tiếng về cơ sở Phật giáo to lớn, một tu viện mà  những dấu ấn đã được xác định ở Đông Dương Đông Nam của Mỹ Sơn. Đây là bằng  chứng  đầu tiên về sự  tồn tại của Phật giáo đại thừa  ở Chămpa”. [16-294]

Năm 972 Chămpa xuất hiện một vị Vua mới, theo các nhà khoa học vị Vua này có tên là Paramesvaravarman, còn các sử liệu Việt Nam gọi là Phi Mê Thuế. Vị Vua này một mặt thì duy trì quan hệ với triều đình Trung Quốc, mặt khác thì luôn có ý đồ lấn chiếm Việt Nam. Khi vua Lê Đại Hành lên ngôi (982) sai sứ sang giao hiếu với Chiêm Thành và đã bị người Chiêm Thành bắt giữ và chính Paramesvaravarman là vua Chămpa đầu tiên gây sự bất hòa với Việt Nam.

Năm 988 một vị vua khác là Harivarman II lên ngôi (sử Việt Nam gọi là Cu Thi Lị Ha Thân Bài – Ma – La) luôn giữ mối quan hệ tốt với nhà tiền Lê. Từ sau Harivarman II tình hình triều chính Chămpa không yên nên không có tài liệu nào đề cập đến các vị vua nối tiếp nhau. Cho đến năm 1050, chỉ có tài liệu Việt Nam cho biết ít nhiều về cuộc đụng độ giữa hai nước vào thời nhà Lý. Để trừng phạt cho những lần vào cướp phá Đại Việt, năm 1044 vua Lý Thái Tôn cầm quân chinh phạt Chiêm Thành và cứ như thế, trải qua nhiều cuộc chiến tranh, trải qua nhiều thế kỷ, Mỹ Sơn cũng bị chi phối theo những bước thăng trầm và hầu như đã bị bỏ quên suốt nhiều thế kỷ và chỉ biết trở lại vào cuối thế kỷ thứ XIX .

Các di tích tại Mỹ Sơn lần đầu tiên được phát hiện cuối năm 1897 đầu năm 1898 do một nhà khoa học người Pháp tên là M.C Paris. Trước năm 1898 ông đã phát hiện và công bố những phế tích Chămpa ở Trà Kiệu (tỉnh Quảng Nam). Trong khi nghiên cứu những di tích ấy, theo chân những người dân địa phương M.c Paris đã đến thung lũng hình lòng chảo thuộc thôn Mỹ Sơn, xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Tại đây ông đã phát hiện ra cả một quần thể di tích kiến trúc cổ Chămpa nằm thành từng cụm dọc hai bên bờ suối bị che phủ bởi cây cối và rừng rậm. Thế là ngay lập tức, Mỹ Sơn đã thu hút sự chú ý của các nhà khoa học thuộc những chuyên môn khác nhau. Ngay năm sau, hai nhà khoa học thuộc viện nghiên cứu Viễn Đông Pháp là L.Finot và L.Lajonquiere đã đến Mỹ Sơn nghiên cứu các văn bia và các di tích.

Sau một số những công cuộc nghiên cứu, phát quang và tu bổ vào đầu thế kỷ thứ XX và giữa thế kỳ thứ XX, khu di tích Mỹ Sơn một lần nữa bị bỏ quên và bị chiến tranh tàn phá nặng nề, thung lũng Mỹ Sơn còn bị đặt trong khu vực “tự do oanh kích” chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.

“Năm 1977 mười bảy chiến sĩ công binh thuộc tỉnh đội Quảng Nam – Đà Nẵng đã hy sinh và bị thương trong đợt gỡ mìn khai quang để phục vụ cho công tác điều tra nghiên cứu. Theo con số điều tra hiện trạng ở Mỹ Sơn chỉ còn lại 30 đền tháp có tường cao từ 1m trở lên”. [7,160]

Sau năm 1975 ở  Mỹ Sơn còn khoảng 20 tháp còn giữ được hình dáng nhưng hầu như không còn nguyên vẹn. Năm 1980 trong chương trình hợp tác văn hóa Việt Nam – Ba Lan, tiểu ban phục hồi các di tích Chămpa đã làm việc tại Mỹ Sơn, kiến trúc sư Ba Lan Kazimierz trực tiếp tham gia và chỉ đạo về mặt kỹ thuật, sau mười năm gia cố tu sửa, trung tâm kiến trúc bậc nhất của nghệ thuật Chămpa đã được hồi sinh, Mỹ Sơn đã được phần nào trở lại dáng vẻ ban đầu của nó, làm cho người ta có thể hình dung được một thánh địa uy nghiêm kỳ vĩ của vương quốc Chămpa xưa kia. Trong thời gian này, nhiều tác phẩm điêu khắc có giá trị đã được tiếp tục tìm thấy, tất cả được trưng bày tại Mỹ Sơn. Có thể nói thánh địa Mỹ Sơn được như ngày nay là nhờ sự quan tâm, hỗ trợ rất lớn của đảng và nhà nước đã làm cho khu di tích Mỹ Sơn được phần trang trọng hơn.

Năm 1977 khu Mỹ Sơn được gỡ mìn, dọn dẹp để phục vụ cho công việc nghiên cứu khoa học.

Năm 1979 khu di tích Mỹ Sơn được chính thức xếp hạng di sản văn hóa quốc gia theo quyết định của bộ văn hóa.

Từ đầu năm 1981 tiểu ban hợp tác Việt Nam – Ba Lan phục hồi các di tích Chăm được thành lập với nhiệm vụ hợp tác nghiên cứu, tu bổ các di tích Chăm ở các tỉnh miền Trung mà trọng tâm là khu di tích Mỹ Sơn.

Năm 1982 – 1986 sửa sang các ngôi tháp theo phương pháp gắn chắp những chổ đã bị hư hỏng.

Đầu năm thập niên 90 của thế kỷ XX, với sự tài trợ của hội những người yêu tháp Chàm, đã cải tạo hai dãy nhà dài thành những nhà trưng bày tại chổ các hiện vật của khu di tích Mỹ Sơn.

Năm 1989 Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng (cũ) ra quyết định khoanh vùng cấm  nhằm bảo vệ khu di tích lịch sử văn hóa hòn đền Mỹ Sơn.

Năm 1997 theo đề nghị của bộ văn hóa thông tin, Mỹ Sơn là một trong sáu di sản văn hóa thiên nhiên tiêu biểu được thủ tướng chính phủ Việt Nam cho phép lập hồ sơ để đăng ký đến với hội đồng di sản văn hóa thế giới đưa vào danh sách di sản thế giới.

Từ đầu năm 1997 đến giữa năm 1998 đã triển khai và hoàn thành hồ sơ đăng ký di sản văn hóa thế giới cho Mỹ Sơn.

“Năm 1999 Mỹ Sơn được công nhận là di sản văn hóa thế giới. Tại phiên họp lần thứ 23 ở thành phố Marrakesh (MaRốc) ngày 1/12/1999 Ủy Ban Di Sản UNESCO đã long trọng tuyên bố công nhận khu di tích Mỹ Sơn là di sản thế giới. Về Mỹ Sơn, Ủy ban di sản đã ghi nhận: “Mỹ Sơn là điển hình nổi bật về giao lưu văn hóa với sự hội nhập vào bản địa những ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài, đặc biệt là nghệ thuật kiến trúc Ấn Độ của tiểu lục địa Ấn Độ”. [7,163]

Tóm lại, có thể nói Mỹ Sơn không chỉ được mọi người biết đến bởi các công trình kiến trúc mà nơi đây còn nổi tiếng bởi hàng trăm tác phẩm điêu khắc vô giá. Nghệ thuật điêu khắc Chămpa là sự kết hợp những yếu tố bản địa với các nền văn hóa bên ngoài một cách có chọn lọc và sáng tạo. Các tác phẩm điêu  khắc được thể hiện trên gạch đá nhưng không thô cứng, cái tài tình của những nghệ thuật điêu khắc Chăm xưa kia là đã biến những tảng đá vô tri thành những tác phẩm nghệ thuật sống động. Mỗi phong cách có một vẻ đẹp riêng dù cho mỗi thời kỳ tư duy thẩm mỹ mỗi khác.

1.3.5. Dòng Lâm Tế Chúc Thánh tại Quảng Nam Đà Nẵng :

Vào thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Phật giáo được phục hưng ở cả hai miền Đàng trong và Đàng ngoài.

Ngay sau khi Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558 – 1613) vào trấn thủ đất Thuận Hóa, Ông đã nghĩ đến việc lập chùa. Từ năm 1601 đến năm 1609 ông lập rất nhiều chùa từ Huế trở vào đến Quảng Nam. Chúa luôn chú trọng đến vấn đề tâm linh và cho lập trai đàn và làm lễ bố thí. Như vậy trong thâm tâm của chúa Nguyễn, đạo Phật có thể làm nơi nương tựa tinh thần cho công trình lập quốc của dòng họ Nguyễn. Cũng vì vậy, sau này các chúa Nguyễn đều có vẽ sùng thượng đạo Phật và nhân dân Đàng Trong cũng nghênh đón các vị du tăng Trung Quốc với một tấm lòng chân thật mặn nồng. Trong thời đại chuyển tiếp giữa hai triều Minh Thanh, nhiều cao tăng Trung Hoa đã tới Đàng Trong hành hóa.

Phật giáo Đàng Trong bắt đầu phục hưng với các thiền sư thuộc phái thiền Trúc Lâm (Viên Cảnh – Lục Hồ, Viên Khoang – Đại Thâm, Minh Châu – Hương Hải) ở vùng Quảng Trị Thuận Hóa và các thiền sư thuộc phái thiền Lâm Tế (Nguyên Thiều – Siêu Bạch, Minh Hải – Pháp Bảo, Thành Đẳng – Minh Lượng) ở vùng Quảng Nam Bình Định.

Đàng Trong một vùng đất mới, Phật giáo mới được phục hưng nên số tăng sĩ rất ít, vậy mà vào năm 1682 Tổ sư Hương Hải dẫn khoảng 50 đệ tử bỏ Đàng Trong ra Đàng Ngoài khiến cho số tăng sĩ đã ít lại càng thêm hiếm hoi, làm cho chúa Hiền (Nguyễn Phước Tần) nghi ngờ thái độ chính trị của các thiền sư thuộc phái thiền trúc Lâm. Vì vậy chúa Hiền phải trọng dụng tổ sư Nguyên Thiều của phái Lâm Tế và nhờ Tổ sư Nguyên Thiều ra Thuận Hóa thay thế Tổ sư Hương Hải hoằng dương Phật pháp tại đây.

Năm 1687 chúa Hiền mất, con là Nguyễn Phúc Trăn lên nối ngôi được gọi là chúa Nghĩa (1687 – 1691). Chúa Nghĩa muốn phát triển Phật giáo mạnh mẽ hơn nên nhờ Tổ sư Nguyên Thiều trở về Trung Hoa thỉnh thêm các danh tăng, cùng kinh sách tượng Phật, pháp khí sang Đàng Trong. Tổ sư Nguyên Thiều đưa sang Đàng Trong nhiều thiền sư, chúa Nguyễn cho mở đại giới đàn ở chùa Thiên Mụ và cử Tổ Nguyên Thiều làm Hòa Thượng Đàn Đầu. Với giới đàn này kể như phái thiền Lâm Tế được triều đình chúa Nguyễn trọng dụng. Vì những lí do trên mà sau này không còn thấy thiền sư thuộc phái thiền Trúc Lâm được nhắc đến ở Đàng Trong mà hầu hết là các thiền sư thuộc phái thiền Lâm Tế và một số ít thiền sư phái thiền Tào Động. Cũng vì những lí do trên mà chúng ta thấy rằng phái thiền Lâm Tế ở Đàng Trong (cũng như Đàng Ngoài) không còn giữ đúng môn phong của phái thiền Lâm Tế ở Trung Hoa mà đã mang nhiều đặc  điểm của phái thiền Trúc Lâm của Đại Việt.

Tổ sư Nguyên Thiều với các đệ tử như : Minh Giáo– Phương Kỳ, Thành Đẳng – Minh Lượng, Minh Vật– Nhất Tri, Minh Hải – Pháp Bảo, Minh Hoàng – Tử Dung cùng các pháp tôn như Thiệt Diệu– Liễu Quán, Thiệt kiến – Liễu Triệt, Thiệt Địa – Pháp Ấn v.v… mở rộng phạm vi hoằng pháp khắp lãnh thổ Đàng Trong giúp cho Phật giáo phát triển mạnh, ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp dân chúng ở mọi nới. Về sau để tiếp nối ngọn đèn pháp của tổ sư Nguyên Thiều, các đệ tử của Tổ đều là những bậc long tượng của thiền tông, tiếp nối truyền thừa tông phong của phái thiền Lâm Tế ở Đàng Trong rực sáng, hưng thịnh hơn và còn lưu truyền mãi cho đến hôm nay .

Tổ sư Nguyên Thiều – Siêu Bạch có các đệ tử và hàng đệ tử nổi danh như:

Thiền sư Minh Giác – Kỳ Phương hay Thành Đạo (hoằng hóa ở chùa Thập Tháp Di Đà Quy Nhơn)

Thiền sư Minh Vật – Nhất Tri hoằng hóa ở chùa Kim Cang (Đồng Nai)

Thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo hay Pháp Hóa (hoằng hóa ở chùa Chúc Thánh Quảng Nam ) và chùa Thiên Ấn (Quảng Ngãi)

Thiền sư Minh Hoàng – Tử Dung hoằng hóa ở chùa Từ Đàm (Phú xuân)

Thiền sư Thành Đẳng – Minh Lượng hoằng hóa ở chùa Vạn Đức (Quảng Nam)

Thiền sư Thành Nhạc – Ẩn Sơn hoằng hóa ở chùa L ong Thiền (Đồng Nai)

Và còn rất nhiều đệ tử khác. Các vị thiền sư này đã kế tục Tổ sư Nguyên Thiều – Siêu Bạch truyền thừa nối tiếp theo nhiều bài kệ truyền pháp khác nhau ở khắp lãnh thổ Đàng Trong. Về sự truyền thừa phái Lâm Tế ở Trung Hoa có rất nhiều bài kệ truyền pháp, khi truyền sang Đàng Trong và Đàng Ngoài của nước Đại Việt chỉ dùng tiếp một vài bài kệ như ở Trung Hoa, một số thiền sư thuộc phái Lâm Tế ở Đàng Trong và Đàng Ngoài đã xuất phát thêm vài bài kệ mới và còn truyền cho tới nay như trường hợp của thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo, thiền sư Thiệt Diệu – Liễu Quán ở Đàng Trong và thiền sư Minh Hành – Tại Tại ở Đàng Ngoài.

Dưới đây là dòng kệ Chúc Thánh thuộc phái Lâm Tế tại Quảng Nam do Tổ sư Minh Hải –  Pháp Bảo xuất kệ.

Thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo tự Đắc Trí hay Pháp Hóa thuộc phái Lâm Tế đời thứ 34, tên tục là Lương Thế Vinh và còn có tên khác là Lê Duyệt, quê ở tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) sanh năm canh tuất (1670). Thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo sang Việt Nam cùng với các thiền sư Giác Phong khai sơn chùa Hàm Long (tức chùa Báo Quốc ngày nay) ở Phú Xuân, thiền sư Từ Lâm khai sơn chùa Từ Lâm ở Phú Xuân, thiền sư Minh Hoàng Tử Dung khai sơn chùa Ấn Tông (nay là chùa Từ Đàm) ở Phú Xuân, thiền sư Hưng Liên – Quảng Hoằng trụ trì chùa Tam Thai trên núi Ngũ Hành Sơn khi Tổ sư Nguyên Thiều – Siêu Bạch về nước thỉnh danh tăng theo yêu cầu của chúa Nguyễn Phúc Trăn (1667-1691) và sau khi tham dự giới đàn tại chùa Thiên Mụ do Tổ sư Nguyên Thiều – Bạch làm Hòa Thượng đàn đầu, thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo vào Hội An (Quảng Nam) khai sơn chùa Chúc Thánh. Trong thời gian hoằng dương Phật pháp ở chùa này, Ngài phát xuất một bài kệ truyền phái mới cho môn đồ thuộc chi phái thiền “Chúc Thánh”. Bài kệ như sau:

Minh thiệt pháp toàn  chương

Ấn chơn như thị đồng
Chúc thánh thọ thiên cửu
Kỳ quốc tộ địa trường
Đắc chánh luật vi tông
Tổ đạo hạnh giải thông
Giác hoa bồ đề thọ
Sung mãn nhân thiên trung

Dịch

Hiểu thấu pháp chân thật
Ấn chơn như hiện tiền
>Cầu thánh quân tuổi thọ
Chúc đất nước vững bền
Giới luật nêu trước tiên
Giải và hạnh nối liền
Hoa nở cây giác ngộ
>Hương thơm lừng nhân thiên.
[21,593]

Năm 1694 do cuộc âm mưu nổi loạn trong đó có những người Hoa kiều sống ở Quy Nhơn chắc hẳn là đệ tử của sư tổ Nguyên Thiều tại chùa Thập Tháp và thiền sư Pháp Bảo ở chùa Chúc Thánh Quảng Nam bị đổ bể, Tổ sư Nguyên Thiều cùng các đệ tử trong phái thiền Lâm Tế như Minh Hải – Pháp Bảo bị liên lụy nên phải bỏ chùa trốn đi nơi khác, đổi pháp danh để lánh nạn. Thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo rời chùa Chúc Thánh vào núi Thiên Ấn ở Quảng Ngãi lập chùa ẩn tu, đổi pháp danh là Pháp Hóa, chùa này sau phát triển thành Tổ đình Thiên Ấn cho đến nay.

Sau thời gian hoằng hóa ở chùa Thiên Ấn, thiền sư Pháp Hóa nổi danh, triều đình chúa Nguyễn cũng tôn sùng nên năm Vĩnh Thịnh thứ 13 (1717) chúa Nguyễn Phước Châu ban biển ngạch cho chùa Thiên Ấn sơn son thiếp vàng trên đó đề “Sắc Tứ Thiên Ấn Tự”. Trong quá trình hoằng hóa, Ngài có nhiều đệ tử nổi danh như sau:

Thiền sư Thiệt Dinh – Chánh Hiển hiệu Ân Triêm hoằng hóa ở chùa Phúc Lâm, có đệ tử nổi danh là Pháp Chuyên – Luật Truyền hiệu Diệu Nghiêm và pháp tôn là Toàn Nhật – Quang Đài nổi tiếng ở Phú Yên.

Thiền sư Thiệt Úy – Khánh Vân kế thế trụ trì chùa Thiên Ấn.

Thiền sư Thiệt Hội- Viên Quang có đệ tử là Pháp Tràng – Quang Chính hiệu Bảo Đài hoằng hóa ở chùa Tam Thai trên ngọn Thủy Sơn – Ngũ Hành Sơn

Thiền sư Thiệt Quảng – Cảm Ứng có đệ tử nổi danh là Pháp Nhân – Thiên Trường và pháp tôn là Toàn Tánh – Chánh Đắc nổi danh ở Gia Định.

Thiền sư Chánh Đắc trụ trì Chùa Khánh Hội và chùa Tập Phước ở Gia Định.

Như vậy, dòng kệ Chúc Thánh được truyền thừa và quảng bá nhiều nhất ở chùa Chúc Thánh vào đến Quảng Ngãi, Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên và các tỉnh miền nam. Khi công hạnh của Ngài đã mãn, vào ngày 27 tháng giêng năm Giáp Tuất (1754) giờ Ngọ, Thiền sư Minh Hải – Pháp Bảo viên tịch ở chùa Thiên Ấn, đồ chúng lập tháp thờ trong khuôn viên chùa. Riêng chùa Chúc Thánh vẫn có tháp của Tổ nhưng chỉ là tháp vọng.

Chùa Chúc Thánh tại Quảng Năm được thiền sư Minh Hải Pháp Bảo hay Đắc Trí (1670 – 1754) khai sơn vào cuối thế kỷ 17, tọa lạc ở khu đồng bằng thanh tịnh, phong cảnh xanh tươi ở ngoại ô đô thị Hội An Dinh Quảng Nam. Cũng tại đây dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh được truyền bá rộng rãi. Hiện nay đệ tử của Ngài được phân bổ nhiều nơi, không những ở Việt Nam mà còn ở các nước khác như ở Úc có Hòa Thượng Như Huệ, Hòa Thượng Bảo Lạc. Ở Mỹ có Hòa Thượng Như Điền, Hòa Thượng Hạnh Đạo, Minh Mẫn. Ở Đức có Hòa Thượng Như Điển, các vị cũng theo gót các vị Tổ truyền bá Phật pháp làm lợi lạc cho chúng sanh.

Hiện nay theo lời của Thượng tọa Như Tín trụ trì tại Hưng Long Cổ Tự là trưởng môn phái Chúc Thánh tại Quảng Nam nói rằng Tổ xuất bài kệ :

Minh thiệt pháp toàn chương
Ấn chơn như thị đồng
Chúc thánh thọ thiên cửu
Kỳ quốc tộ địa trừng .

Bài kệ này dùng để đặt pháp danh cho các đệ tử xuất gia thuộc phái Lâm Tế Chúc Thánh. Bài kệ thứ hai dùng thế độ cho các đệ tử tại gia.

Đắc chánh luật vi tông
Tổ đạo giải hành thâm
Giác hoa bồ đề thọ
Sung mãn nhơn thiên trung .

Bài kệ này đến nay được truyền đến chữ “thọ”. Ngoài ra còn có bài kệ thứ hai, không biết tổ xuất kệ từ đâu, dòng kệ này được truyền thừa tại Bình Định. Bài kệ như sau:

Minh thiệt pháp toàn chương
Ấn chơn như thị đồng
Vạn hữu duy nhất thể
Quán liểu tâm cảnh không
Giới hương hành thánh quả
Giác hải dẫn liên hoa
Tín tấn sanh phước huệ
Hành trí giải viên thông
Ảnh nguyệt thanh trung thủy
Vân phi nhập khứ lai
Đạt ngộ vi diệu tánh
>Hoàng khai tổ đạo trường

Tóm lại, dòng kệ Chúc Thánh tồn tại cho đến ngày nay được các hàng đệ tử của Tổ lưu truyền theo bài kệ Ngài đã xuất. Tính đến nay hàng đệ tử của tổ không sao đến cho hết được. Chúng ta hàng hậu lai, khi nghĩ đến công hạnh của các vị tổ thì không thể dùng văn tự diễn tả cho hết được. Các Ngài đến là đến với hạnh nguyện và đi là thì trở về với bản thể. Do đó những người hậu lai muốn đi tìm lại lịch sử của chư tổ để biết được cội nguồn, biết được công hạnh của chư tổ để mà noi gương, để mà học hỏi, để biết được cội nguồn của mình. Hiện nay những ngôi chùa mà Tổ đặt chân khai sơn tại Quảng Nam có thể kể đến như chùa Chúc Thánh, chùa Phước Lâm, chùa Vạn Đức. Người viết muốn thành kính đảnh lễ giác linh của Tổ  “Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông Tam Thập Tứ Thế Húy Minh Hải Thượng Đắc Hạ Trí Hiệu Pháp Bảo Tổ Sư”.

This entry was posted in Phật Giáo, Văn Hóa, Đời Sống. Bookmark the permalink.