Sự hiển thị thần thông của Đức Phật trong những lần như thế thường là một biểu tượng, một ẩn dụ của những khái niệm “vượt dòng” hay “đến bờ bên kia” (đáo bỉ ngạn) trong đạo Phật. Cũng trong tác phẩm Phật Sở Hành Tán, ngài Mã Minh giải thích rằng Đức Phật đã qua sông không phải bằng thuyền thế gian mà bằng thuyền trí tuệ và Ngài đã dùng thuyền này để tế độ chúng sanh[11]. Đức Phật thường ví giáo pháp của Ngài như ngón tay để chỉ mặt trăng[12], như chiếc bè[13] để qua sông sanh tử. Tuỳ theo căn tánh và nghiệp lực, có những chúng sanh vượt thoát dòng sanh tử, nhưng cũng có những chúng sanh mãi chìm đắm trong đó. TrongPháp Hoa Văn Cú Kí, ngài Trạm Nhiên có trích dẫn một đoạn kinh nói về bảy hạng người trong sông Hằng. Có những người vào sông bị chìm, có những người tuy bị chìm nhưng sau đó ra khỏi, có những người sau khi ra khỏi lại nhìn các phương khác nhau .v.v…Bảy hạng người đó dụ cho các hàng Nhất-xiển-đề, phàm phu, Thanh-văn, Bích-chi, Bồ-tát .v.v…[14]. Khi giảng về nghiệp lực của chúng sanh, Đức Phật cũng dùng nước sông Hằng để ví dụ. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng trên bờ sông Hằng có vô số ngạ quỉ loã lồ, đói khát, lửa cháy khắp thân, lại có các chúng sinh khác như quạ, kên kên, chó sói rượt bắt nhau. Vì bị đói khát nên các ngạ quỷ bèn tìm nước uống, nhưng dù ở bên bờ sông mà chúng không thấy nước, có kẻ vừa thấy nước thì nước ấy liền khô cạn[15]. Đại Thừa Huyền Luận giải thích rằng, do nghiệp lực chúng sanh khác nhau nên cùng là nước sông Hằng mà loài người thấy đó là nước, ngạ quỷ thấy đó là lửa, chư thiên thấy đó là đất, các loài cá thấy đó là chổ ở[16]. Trong kinh tạng Nguyên Thuỷ, Đức Phật không chấp nhận quan niệm rằng nước sông Hằng hay bất kỳ một con sông nào khác có thể rửa sạch tội lỗi của chúng sanh. Kinh Thủy Tịnh Phạm Chí (Trung A-hàm) có kể lại cuộc hội ngộ của ngài và Bà-la-môn Thủy Tịnh. Vị Bà-la-môn này khuyên đức Phật nên đến sông Đa Thủy tắm rửa để tăng trưởng phước đức và tiêu trừ tội lỗi. Đức Phật không đồng ý với quan điểm này. Theo Ngài nước sông chỉ có thể rửa được cơ thể bên ngoài chứ không thể nào rửa nội tâm. Muốn sống một đời sống thanh tịnh ba nghiệp thì hành giả phải thực hành các thiện pháp, có chánh niệm, chánh trí và giữ gìn giới luật. Theo Ngài, chỉ có sự tu tập chân chính mới có thể chuyển hoá được nghiệp thức của mỗi người. Khi ấy Bà-la-môn Thủy Tịnh tỉnh ngộ và phát tâm quy y với đức Phật[17].
6. Ẩn dụ sông Hằng trong kinh điển Phật giáo
Vì sông Hằng là con sông nổi tiếng và khi còn tại thế Đức Phật đã nhiều lần hoằng hoá trong đồng bằng của con sông này nên dòng sông này đã trở thành một ẩn dụ, một hình tượng thường được nhắc đến trong các pháp thoại của Ngài. Luận Đại Trí Độ và Khan Hành Kim Cang Bát Nhã Kinh Tán giải thích rằng trong cõi Diêm-phù-đề có nhiều sông lớn hơn sông Hằng, nhưng Đức Phật thường chọn sông này để ví dụ vì: 1. Cát của sông này rất nhiều; 2. Người đời xem sông này là sông cát tường, phước đức, vì họ tin rằng nước sông có thể rửa sạch tội lỗi; 3. Trải qua nhiều kiếp, tên của con sông này không thay đổi; 4. Đức Phật và hàng đệ tử của Ngài thường du hoá trên bờ sông này[18]. Kim Cang Bát Nhã Kinh Nghĩa Sớ còn giải thích thêm rằng năm vương quốc lớn của xứ Thiên Trúc đều nằm trên bờ sông này. Sông này bắt nguồn từ ao A-nậu-đạt trên đỉnh Hương-sơn, dài tám ngàn dặm, nơi rộng bốn mươi dặm, nơi hẹp mười dặm, cát trong sông rất mịn, vì sông sâu nên voi ngựa đi qua đều bị chìm[19]. Khi nói đến sông Hằng, Đức Phật thường đưa ra những ví dụ và ẩn dụ như sau:
- Cát sông Hằng nhiều vô lượng. Mỗi khi nói đến chư Phật, chúng sanh, quốc độ, chư thính chúng…nhiều vô lượng, Đức Phật thường đem số cát sông Hằng để ví dụ (Tương Ưng IV, Kinh Bát Nhã, Kim Cang, Pháp Hoa, Niết Bàn…).
- Một nhúm muối nhỏ bỏ vào chén nước nhỏ thì nước trong chén sẽ bị mặn, không thể uống được, nhưng nếu đem nhúm muối ấy bỏ vào sông Hằng thì nước sông Hằng không bị mặn. Cũng ví như người có tu tập tâm, có giới đức, có tâm quảng đại như sông Hằng thì một nghiệp ác nhỏ không thể làm người ấy đau khổ (Tăng Chi I).
- Sông Hằng chảy mang theo nhiều bọt nước, những bọt nước ấy cũng như ngũ uẩn là giả hợp, là trống không (Tương Ưng III, Phẩm Hoa).
- Người khởi lên vọng tưởng rằng tầm và tứ có thể đoạn diệt được chẳng khác nào người có ý tưởng ngây ngô rằng có thể dùng một nắm tay để chặn dòng nước của sông Hằng (Tương Ưng IV, Phẩm Tương Ưng Tâm).
- Ví như sông Hằng hướng về biển cả, xuôi dòng về biển cả, hàng đệ tử của Đức Phật chỉ hướng về Niết-bàn (Ðại kinh Vaccaghotta 37, Kinh Trung Bộ).
- Cát của sông Hằng chỉ trôi theo nước của sông Hằng, cũng thế kinh giáo của Đức Phật luôn xứng hợp, tuỳ thuận với dòng Niết Bàn (Kinh Lăng Già).
- Sông Hằng dụ cho chân lý, nước sông Hằng dụ cho Chân như (Kinh Niết Bàn, Bảo Tánh Luận)[20].
- Nước sông Hằng tuy nhiều, nhưng không thể nhiều bằng máu, nước mắt của chúng sanh hay sữa mẹ mà chúng sanh đã uống trong vòng sanh tử (Tạp A Hàm, Quyển 33).
- Ví như khúc gỗ trôi trên sông Hằng, không vướng vào hai bờ, không bị chìm, không bị nhặt lấy…chỉ trôi theo dòng nước mà ra biển, cũng vậy chư Tỳ-kheo cũng chỉ nên hướng về Niết-bàn (Tương Ưng IV, Phẩm Rắn Độc).
- Ví như người chăn gia súc biết quan sát hai bên bờ sông, biết cách đưa đàn gia súc qua sông Hằng an toàn, có những Sa-môn, Bà-la-môn khéo biết đời này, đời sau, ma giới, phi ma giới…thì được an lạc, hạnh phúc lâu dài (Tiểu Kinh Người Chăn Bò 34, Trung Bộ Kinh).
Trong số những ví dụ và ẩn dụ trên, có lẽ ví dụ số cát sông Hằng (Hằng hà sa số) là ví dụ mà kinh điển thường nói đến nhiều nhất. Luận Đại Trí Độ có nói rằng số cát trong sông Hằng là vô lượng, hàng phàm phu không thể tính đếm được, duy chỉ có Đức Phật và Pháp thân Bồ-tát mới biết được số đó[21]. Nhưng làm sao có thể biết rằng Đức Phật biết được số lượng cát trong sông Hằng. Bộ luận này mới trích dẫn một câu chuyện như sau. Một lần nọ Đức Phật ngồi bên một khu vườn nằm ngoài tinh xá Kỳ Hoàn. Lúc ấy có một Bà-la-môn đến bên Phật và hỏi rằng: “Rừng cây này có bao nhiêu lá?” Đức Phật đáp: “Có bấy nhiêu lá”. Bà-la-môn sanh tâm nghi, bèn vào rừng hái một nắm lá cây rồi giấu đi. Sau đó ông quay lại nơi Đức Phật đang ngồi và hỏi rằng: “Rừng cây này có bao nhiêu lá nhất định?” Đức Phật liền đáp: “Nay thiếu bấy nhiêu lá”. Rồi Ngài nói cho Bà-la-môn kia biết rằng ông ta vừa hái chính xác bao nhiêu lá trong rừng. Bà-la-môn ấy vô cùng kính phục, xin xuất gia và về sau chứng quả A-la-hán[22]. Vì rằng Đức Phật biết được số lá trong rừng, nên Ngài cũng có thể biết được số cát trong sông Hằng. Đức Phật thường dạy hàng đệ tử của mình rằng những gì mà Ngài giảng dạy chỉ là một phần rất nhỏ so với những gì mà Ngài đã chứng biết. Bản sớ giải Kinh Hoa Nghiêm của ngài Trừng Quán có kể lại rằng có một lần Đức Phật và chư Tỳ-kheo đi đến một khu rừng nằm bên bờ sông Hằng. Ngài hái một nắm lá và hỏi chư Tỳ-kheo rằng lá trong tay Như Lai nhiều hay lá của các loài thảo mộc trong thế gian này nhiều. Chư Tỳ-kheo liền đáp lá trong tay Đức Thế Tôn rất ít so với lá trong thế gian này. Nhân đó Đức Phật dạy chư Tỳ-kheo rằng tri kiến của Như Lai về các pháp như lá của các loài thảo mộc trong thế gian, mà những gì Ngài đã tuyên thuyết, giảng dạy chỉ như lá trong tay mà thôi[23].
Trong Kinh điển Đại Thừa, Đức Phật không chỉ dùng hình tượng cát sông Hằng để ví cho vô số chư Phật và chư Bồ tát trong mười phương, mà còn để dụ cho thần lực, pháp thân và hào quang của Đức Phật. Kinh Lăng Già giải thích rằng cát sông Hằng tuy bị các loài cá, rùa, súc vật giẫm đạp, nhưng cát vẫn không cảm thấy phiền muộn, không thấy có ngăn ngại, không bị ô nhiễm…Cũng thế trí tuệ của đức Như Lai như sông Hằng, thần lực của Ngài như cát của sông. Do bổn nguyện độ sanh của mình, đức Như Lai không khởi tâm phiền muộn, ưu sầu trước những xúc não của hàng phàm phu. Vì là tánh của đất, cát sông Hằng không mất đi tánh đất dù gặp phải lửa dữ. Cũng thế pháp thân của Như Lai không thể tan hoại trước lửa nhiệt não của hàng phàm phu ngu si. Cũng như cát trong sông Hằng, hào quang của đức Như Lai là vô lượng. Trong bộ kinh này, cát sông Hằng còn được ví như giáo pháp của Đức Phật, bản thể của Phật quả, và cuối cùng Đức Phật còn dạy rằng: “Những ai thấy chư Phật như cát sông Hằng, vốn bất hoại, bất biến, thì những người ấy mới thật sự thấy được các đức Như Lai.”[24]
Sông Hằng cũng là hình ảnh mà Đức Phật dùng để giảng giải về tánh bất sanh, bất diệt trong mỗi chúng sanh. Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm, vua Ba-tư-nặc nghe ngoại đạo nói rằng chết là mất hẳn, sinh tâm hồ nghi và đến bạch Phật. Đức Phật dạy rằng năm lên ba tuổi nhà vua đã thấy được sông Hằng, cho đến lúc đầu bạt, mặt nhăn vua cũng thấy sông Hằng. Tuy thân xác của vua có thay đổi, biến hoại, nhưng cái tánh thấy thì không già, không trẻ, không biến hoại, không sinh diệt. khi nghe lời dạy đó, vua Ba-tư-nặc mới nhận chân được bản tánh bất sanh, bất diệt trong chính mình[25].
Từ thời Đức Phật tại thế hay trải qua những giai đoạn sau đó sông Hằng vẫn luôn gắn liền với những sự kiện, những dòng lịch sử của Phật giáo. Một trong những sự kiện đó là việc tôn giả A-nan viên tịch tại giữa dòng sông này. Khi tôn giả sắp viên tịch, hai nước Tỳ-xá-ly và Ma-kiệt-đà đang có mối bất hoà nhưng dân chúng hai bên đều mong được tôn thờ xá lợi của ngài. Vì thương tưởng cho dân chúng hai nước này và cũng để hoá giải mối hiềm thù của họ, tôn giả A-nan đã ra giữa dòng sông Hằng, con sông được dùng làm biên giới giữa hai nước, khuyên dân chúng hai nước nên sống hoà thuận, tôn kính nhau và sau đó ngài an trú tam muội và viên tịch. Xá lợi ngài được tôn thờ ở cõi trời, long cung, Tỳ-xá-ly và Ma-kiệt-đà[26].
Vào TK VII TL, trong quá trình cầu học và chiêm bái các thánh tịch Phật giáo tại Ấn Độ, ngài Huyền Trang (c. 596 or 600 – 664) đã từng qua lại rất nhiều lần trên dòng sông Hằng. Khi đến xứ Srughna (Tốt-lộc-cần-na), ngài đã chứng kiến và diễn tả về sông Hằng như sau: nguồn của sông rộng ba đến bốn dặm, nước chảy về đông nam, ra đến gần biển thì nó mở rộng ra hơn mười dặm. Nước sông trong xanh, giống nước đại dương, sóng nước cuồn cuộn, có nhiều loài thủy tộc nhưng không hại người. Nước sông có vị ngọt và cát sông rất mịn. Theo sử liệu của nước này, con sông này còn có tên là Phước Thủy, bởi vì nó có khả năng tẩy rửa vô số tội lỗi. Những ai vốn tạo các tội lỗi, nếu đến đây tắm gội, trầm mình dưới dòng nước này khi qua đời sẽ sanh về thiên giới và hưởng hạnh phúc. Nếu người nào qua đời, thi thể được thả trên sông này, người ấy sẽ không đọa vào đường ác; hoặc khi người ấy được dòng nước đưa đi, dù người ta không nhớ đến người ấy, vong hồn của người ấy vẫn được phòng hộ nơi an ổn. Thời ấy có Bồ-tát Đề-bà từ nước Tích Lan đến nước này dùng chánh pháp cùng vận thần thông để khai thị dân chúng ngay tại bờ sông bỏ đi tà kiến về khả năng tẩy trừ tội lỗi, khổ đau của dòng sông, giúp họ sống với chánh kiến[27].
Theo kinh Đại Bát Niết-bàn (Trường Bộ Kinh), một trong tám phần xá lợi của Đức Phật được những người Koli xây tháp thờ tại Rāmagāma, một khu đô thị nằm trên bờ sông Hằng. Theo bộ Đại Sử, chẳng bao lâu sau, vào mùa lũ nước sông Hằng dâng cao ngập cả khu đô thị này và phần xá lợi nơi này được đưa xuống long cung. Điều này có lẽ đã được tiên đoán như trong phần kệ tụng cuối của kinh Đại Bát Niết-bàn rằng bảy phần xá lợi được tôn thờ tại Diêm-phù-đề và một phần khác được Long vương thờ cúng tại Rāmagāma. Đến thời vua A-dục, vua đã mang bảy phần xá lợi trong Diêm-phù-đề về cung và sau đó đích thân vua xuống long cung để thỉnh phần xá lợi còn lại. Theo A-dục Vương Truyện, khi đến long cung, vua thấy Long vương tôn thờ xá lợi hết mực cung kính và không muốn trao lại xá lợi cho mình, nên vua chỉ chiêm ngưỡng mà không thỉnh về. Sau khi về cung, vua đã xây tám vạn bốn ngàn ngôi tháp trong vương quốc mình để tôn thờ bảy phần xá lợi trên[28].
Lời Kết
Khi đối diện với dòng sông, các triết gia, thi sĩ thường liên tưởng đến dòng chảy của cuộc đời hay sự luân chuyển vô thường của vạn hữu. Heraclitus rất minh triết khi cảm nhận: “không ai tắm hai lần trên một dòng sông”. Lý Bạch trong Tương Tiến Tửu thì nhận ra sự lưu chuyển của Hoàng hà từ miền cao xuôi về biển, không bao giờ đổi thay. Ngày xưa khi cùng các môn đệ của mình nhìn dòng sông cuộn chảy bất tận, Khổng Tử đã thốt lên: “Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ” (Chảy mãi như thế này, ngày đêm chẳng dừng nghỉ!). Còn đối với đức Phật, khi nhìn nước sông Hằng cuộn trôi về biển cả, Ngài không chỉ nhận ra thực tính vô thường của các pháp, mà còn vận dụng khả tính vô thường ấy để khơi mở con đường giác ngộ, vượt thoát nẽo trầm luân sanh tử: “Ví như, này các Tỷ-kheo, sông Hằng thiên về phương Đông, hướng về phương Đông, xuôi về phương Đông. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập bốn chánh cần, làm cho sung mãn bốn chánh cần, thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, bốn chánh cần tu tập làm cho sung mãn như thế nào, lại thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn.”[29]
Sông Hằng và lịch sử của nó luôn gắn liền với những thăng trầm của nền văn minh Ấn Độ và vận mệnh của Phật giáo tại xứ sở này. Mặc cho bao biến thiên của thời cuộc, bao đổi thay của xã hội, dòng sông này, vào ngày Đông hay Hạ, lúc mùa lũ hay khi nước vơi, vẫn soi bóng những hình ảnh sinh hoạt tôn giáo và văn hoá tưởng chừng như không hề đổi thay suốt bao ngàn năm qua. Dấu ấn văn minh tự ngàn xưa vẫn còn lưu giữ trên từng dòng nước, từng ngôi đền, từng cội cây, hay từng nghi thức lễ bái trên bến sông này. Như dòng đời vẫn cuộn trôi theo nhịp sóng của vô thường, nước sông Hằng vẫn âm thầm, lặng lẽ trôi đi, ôm trọn trong mình cả một thế giới thiêng liêng, kỳ ảo mà bao đời nay loài người vẫn không thể nào thấu hiểu được. Dòng sông vẫn như muốn nhắn nhủ với loài người về khát vọng muôn thưở của họ, đó là khát vọng tìm về cội nguồn của chân hạnh phúc, quay về với con sông trong chính mình để gạn lọc mọi nhiễm ô, triền phược, để ngay trong bóng đêm của sanh tử dòng sông ấy có thể phản chiếu được ánh trăng ngời sáng của tự tánh, hay những tinh tú, những dãi ngân hà trên bầu trời xa xăm, hay để chảy qua những quốc độ, những thế giới thanh tịnh. Những quốc độ và thế giới thanh tịnh ấy, theo kinh Hoa Nghiêm, thì rất nhiều, nhiều như số cát trong sông Hằng vậy.
Thích Đồng Thành
http://phapbao.org/song-hang-va-phat-giao-an-do/
* Tiến sĩ Phật học, Đại học Delhi, hiện là Hiệu Trưởng Trường Phật học Bình Định.
[1] J. Nehru, The Discovery of India, Oxford University Press, New Delhi, 2002, p. 51.
[2] M. Williams, Indian Wisdom, Rupa.co, New Delhi, 2001, p. 404.
[3] Mười sáu nước này gồm: Kāsī, Kosala, Anga, Magadha, Vajji, Mallā, Cetiya, Vamsā, Kuru, Pañcāla, Macchā, Sūrasena, Assaka, Avantī, Gandhāra và Kamboja.
[4] T1n1, tr. 116c-117a. Thao khảo Đại Trí Độ Luận, T25n1509, tr. 114a; Khan Hành Kim Cang Bát Nhã Kinh Tán, T33n1700, tr. 138b; Thích Ca Phổ, T50n2040, tr. 10b;.
[5] D.H.H. Ingalls, “Source of a Mulasarvastivadin Story of The Origin of the Ganges”, Harvard Journal of Asiatic Study, Vol. 14, No.1/2, p. 186.
[6] Sđd, tr. 185-188.
[7] T3n187, tr. 606a-b.
[8] J. Strong, The Buddha A Short Biography, Oneworld, Oxford, 2002, pp. 128-129.
[9] T4n192, tr. 41b.
[10] G..P. Malalasekera, Dictionary of Pali Proper Names, Vol I, Munshiram Manoharlal, New Delhi, 2002, p. 735.
[11] Sđd.
[12] Kinh Viên Giác, T 17n842, tr.917a.
[13] Trung Bộ I, Kinh Ví Dụ Con Rắn. Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật.
[14] T34n1718, tr.276c. Xem thêm Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Tuỳ Sớ Diễn Nghĩa Sao, T36n1736, tr. 219a.
[15] T10n279, tr. 323b.
[16] T45n1853, tr.67b.
[17] Tuệ Sỹ (dịch), Trung A-hàm, quyển 2, NXB. Phương Đông, TP. HCM, 2009, tr. 145-146.
[18] T25n1509, tr.114a. T33n1700, tr.138b.
[19] T33n1699, tr. 112b.
[20] Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh Sớ, T39n1788, tr.199c.
[21] T25n1509, tr.114b.
[22] Sđd.
[23] Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Tuỳ Sớ Diễn Nghĩa Sao, T36n1736, tr. 217b.
[24] D.T. Suzuki, Studies in the Lankavatara Sutra, Munshiram Manoharlal, New Delhi, 1998, pp. 152-153.
[25] Kinh Thủ Lăng Nghiêm, T19n945, tr.110b-c.
[26] T34n1718, tr. 18c.
[27] S. Beal, Si-yu-ki: Buddhist Records of the Western World, LPP, Delhi, 2008, pp. 187-188.
[28] T50n2042, tr. 102a.
[29] Kinh Tương Ưng Bộ, Phần 49, chương V, Tương Ưng Chánh Cần.