Người Tây Tạng Nghĩ Về Cái Chết: Người Chết Đi Về Đâu – Chương I

Những kinh nghiệm sẽ trải qua sau khi chết hoàn toàn phụ thuộc vào nội dung tâm tưởng của mỗi người. Hay nói một cách khác, như đã được giải thích, tình trạng sau khi chết rất gần giống với tình trạng của một giấc chiêm bao; và các giấc mộng ấy là do tâm trạng của người nằm mộng sản sanh ra. Tâm lý này giải thích một cách khoa học tại sao những người sùng đạo, trong Cơ Ðốc giáo chẳng hạn, đã đưa ra những chứng cứ của các bậc thánh, hoặc những trường hợp xuất thần, hoặc trong giấc mộng, đã thấy được đức Chúa Cha ngồi trên ngôi, có đức Chúa Con bên cạnh, và thấy cả những cảnh giống như trong Kinh Thánh mô tả, với các thuộc tính của bầu trời, hoặc thấy đức Mẹ đồng trinh, các vị thánh và các thiên sứ, hoặc những chỗ đền tội và địa ngục…

Quyển sách này có vẻ như được căn cứ trên những dữ kiện có thể kiểm chứng được bằng chính kinh nghiệm của con người về mặt sanh lý và tâm lý, và đã phân tích vấn đề sau khi chết như một vấn đề đơn giản thuộc về tâm lý. Rất khoa học là ở điểm này.

Sách đã xác quyết nhiều lần rằng: Những gì được trông thấy trong giai đoạn mang thân trung ấm là hoàn toàn do nội dung tâm trạng riêng của người chết mà hiện ra. Không có cảnh tượng nào, thiện thần hay ác thần nào ngoài những hiện tướng xuất phát từ các ảo giác thuộc nghiệp thức của những tuởng tướng đã tạo ra. Ðây là một kiểu sản phẩm vô thường sản sanh ra từ nơi đức tin, sự khao khát được hiện hữu và ý chí muốn sống còn.

Từ ngày này sang ngày khác, những cảnh tượng của thân trung ấm dần dần thay đổi, phù hợp với sự phát khởi cũa các tưởng tướng cũa thần thức người chết, cho đến khi nghiệp lực chiếm lấy quyền chi phối và dẫn đến sự tái sanh. Khi sự tái sanh thực sự bắt đầu, tình trạng sau khi chết chấm dứt và người nằm mộng ra khỏi giác mộng, lại bắt đầu trải qua các hiện tượng của đời sống mới.

Kinh Thánh của đạo Cơ Ðốc, cũng như kinh Koran của đạo Hồi không hề cho rằng các kinh nghiệm tâm linh với dạng thức những ảo giác được nhìn thấy của các nhà tiên tri hay một tín đồ sùng đạo lại có thể là không thật. Nhưng sách Luận vãng sanh này đã trình bày vấn đề một cách dứt khoát đến nỗi tạo ra nơi người đọc một ấn tượng rất rõ là: Mọi cảnh tượng được trông thấy, bất cứ là cảnh tượng gì, đều  chỉ thuần túy là hư huyễn không có thật. Dù là các thiện thần, ác thần, cảnh thiên đàng hay địa ngục… tất cả đều chỉ là ảo mộng, căn cứ trên sự biến hiện của tâm thức trong cuộc sống luân hồi.

Toàn bộ nội dung của quyển sách này đều hướng về moät mục đích duy nhất là tạo điều kiện cho sự thức tỉnh của thần thức người chết, trở về với thực tại. Một khi thần thức người chết đã thoát khỏi được mọi sự che mờ của các ảo tưởng thuộc nghiệp thức hay thuộc sự sống luân hồi thì sẽ đạt được một thực trạng Niết-bànsiêu việt tất cả các hiện tượng như thiên đàng, địa ngục, các cõi trời, người, súc sanh…

Trong những cảnh tượng được xác định là giả dối, không thật, sách này cũng có đề cập đến một vấn đề tương tự như là sự phán xét thiện ác sau khi chết. Những gì được mô tả ở đây và trong quyển “Sách dành cho người chết” của Ai Cập rất giống nhau, về những điểm cơ bản, đến nỗi người ta có thể tin rằng chúng có cùng một nguồn gốc. Trong sách của Tây Tạng, vua Diêm Vương được gọi làDharma-Ràja, sách của Ai Cập gọi là Osiris. Trong hai câu chuyện được kể lại, người ta thấy đều có cảnh cân lường tượng trưng. Với Dharma-Ràja, có những hòn sỏi đen được đặt lên một đĩa cân và đĩa cân bên kia là những hòn sỏi trắng. Sỏi trắng và sỏi đen tượng trưng cho những hành động tốt hoặc xấu. Với Orisis thì quả tim được đặt lên một đĩa cân và đĩa cân bên kia là chiếc lông vũ, hoặc đôi khi là hình tượng vị nữ thần công lý. Quả tim tượng trưng cho đạo đức của người chết, và chiếc lông vũ tượng trưng cho sự ngay thật hay công lý.

Trong quyển “Sách dành cho người chết” của Ai Cập thì người chết nói với quả tim mình rằng: “Ðừng trở thành một sự hiển nhiên chống lại ta, đừng là kẻ thù của ta trước vòng thánh thiện. Mong sao cho đĩa cân đừng lệch về phía chống lại ta trước mặt ngài thánh vương Amenti.” Thần Toth đầu khỉ là thần trí tuệ kiểm soát sự cân lường.

Trong sự phán xét của Tây Tạng thì thần Shinje cũng có đầu khỉ, làmviệc ấy. Cả hai cảnh đều xảy ra trước một “bồi thẩm đoàn” gồm các thiên thể, kẻ thì đầu thú, kẻ thì đầu người. Trong sách của Ai Cập thì một vị thần hung bạo chờ đợi để nuốt tươi người chết nếu họ bị kết án, còn trong sách của Tây Tạng thì các hung thần đứng đợi để đưa kẻ làm ác vào thế giới bị hành hình. Bản tổng kết các tội lỗi mà người ta nói là do thần trí tuệ Toth cầm giữ, lại tương xứng với kính chiếu nghiệp do Dharma-Ràjf nắm giữ; hoặc như trong một số câu chuyện khác thì kính chiếu nghiệp do một vị thần dự vào bồi thẩm đoàn nắm giữ.

Trong cả hai quyển sách, khi sự phán xét diễn ra chúng ta đều thấy người chết hướng về quan tòa để tự bào chữa là mình đã không làm ác. Trước mặt Osiris thì sự bào chữa ấy được chấp thuận, còn trước mặt Dharma-Ràja thì sự bào chữa đó phải được kính  chiếu nghiệp xác nhận lại. Ðây là nét đặc biệt của Ấn Ðộ hay của Phật giáo nói riêng. Theo ức đoán, có thể là từ một nguồn gốc chung vào thời cổ xưa đã hình thành nên hai tập sách của Ai Cập và Tây Tạng, nhưng tập sách của Ai Cập hình như đã ít biến đổi hơn.

Trong quyển thứ 10 của tập “Livre de la Republique”, khi kể về những cuộc phiêu lưu của Er trong thế giới bên kia, Plato đã mô tả một sự phán xét tương tự. Trong đó, người ta thấy có các quan tòa, các bản ghi tội lỗi được gắn vào các linh hồn bị phán xét, và những con đường dẫn đến những nơi khác nhau. Người hiền lành đi vào đường dẫn lên trời, người ác độc đi xuống đường vào địa ngục. Có những hung thần đứng chờ để dẫn các linh hồn bị kết án vào nơi trừng phạt.

Tín ngưỡng về sự đền tội ngày nay đã được đạo Cơ Ðốc tin nhận, được thánhPatrick giảng dạy ở Irlande. Hệ thống các truyện truyền kỳ của người Celtes về thế giới bên kia và những chuyện tái sanh lẫn lộn với các tín ngưỡng của họ về các bà tiên; truyện truyền kỳ của Proserpine được kể lại một cách phổ quát trong nhiều quyển sách thiêng của nhân loại; những giáo lý của người Sémites ở Tiểu Á về trời, địa ngục, về sự phán xét, và về sự sống lại; cùng với câu chuyện củaPlato, tất cả những điều đó đã chứng minh rõ về một tín ngưỡng phổ quát, chắc hẳn là đã có từ xa xưa, vào trước thời kỳ các truyện cổ của xứ Babylone và của Ai Cập.l

Bức tranh trình bày sự phán xét theo truyền thuyết của một tu viện ở Gantok, thuộc xứ Sikkim, Tây Tạng, được vẽ năm 1919, do một hoạ sĩ người Tây Tạng tên là Lharipa-Pempa-Ten-dup-La vẽ trong thời gian tạm trú ở đó. Một trong những bức tranh tường xưa nhất cũng vẽ đề tài ấy cho đến gần đây vẫn còn được giữ nguyên vẹn tại điện Tadishing ơû Sikkim. Trong bức họa diễn tả bánh xe luân hồi của sự sống.

Tiến sĩ L. A. Waddell đã mô tả nó như sau: “Sự phán xét bao giờ  cũng có Dharma-Ràja vô tư chủ trì. Ngài cầm một tấm gương soi, trong đó hiện rõ trọn vẹn linh hồn của người chết, trong lúc thần Shinje cân các hành động tốt để đối chiếu với các hành động xấu, bằng những hòn sỏi màu trắng và màu đen.” Ông cũng cho biết, nguồn gốc của hình ảnh đó là do một bức tranh cùng loại diễn tả“bánh xe của sự sống” thường được gọi là le Zodiaque, hiện ở nơi cửa vào của hầm nhà số 17, Ajantaø, Ấn Ðộ. Ðiều này minh định tính cách cổ xưa của hình tượng phán xét mà trong sách này mô tả.

Khi phân tích những giáo lý trình bày vũ trụ quan của Phật giáo, và trước đó là Ấn Ðộ giáo, chúng ta có thể đạt đến một sự hiểu biết rộng rãi. Ðây có thể xem là một khoa học được lưu truyền từ thời rất xa xưa của các môn thiên văn học, hình thái học, vận hành học, đã cố gắng mô tả về các tinh cầu và giải thích các thế giới. Một số thế giới được cho là ở dạng rắn có thể trông thấy được – khoa học phương Tây chỉ biết được những thế giới loại này – còn một số thế giới khác ở dạng khí, hay nói đúng hơn là vô hình nên không thể trông thấy được, nhưng vẫn hiện hữu trong trạng thái có thể tạm gọi là chiều thứ tư của không gian.

Núi Tu-di được mô tả là nằm ở trung tâm vũ trụ. Thế giới của chúng ta bao quanh nó, được sắp xếp thành 7 vòng đại dương, ngăn cách nhau bằng 7 vòng núi đồng tâm màu vàng ánh. Núi Tu-di là cái trục chính, là điểm tựa của cả thế giới. Cách mô tả này có thể xem là tương đương như mặt trời ở trung tâm của thiên văn học Tây phương, trung tâm dẫn lực của vũ trụ hiện hữu.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.