Người Tây Tạng Nghĩ Về Cái Chết: Người Chết Đi Về Đâu – Chương I

Ngoài bảy vòng đại dương và bảy vòng núi vàng ánh xen kẻ là những vòng đại lục.

Như đã nói, núi Tu-di là cái lỏi của thế giới. Bên dưới núi là các tầng địa ngục, bên trên núi là các tầng trời của chư thiên, được tin là thuộc quyền cai trị của vua trời Ðế Thích.

Ngang cấp với tầng trời của Ðế Thích, có tám vị Thánh mẫu, mỗi vị ở một tầng trời riêng. Những vị này chính là các thánh mẫu của Ấn Ðộ giáo xưa kia.

Trong núi Tu-di, chỗ dựa của các tầng trời, có 4 cõi thế giới chồng lên nhau. Ba cõi phía dưới có các vị thiên thần cư trú, cõi thứ tư cao nhất, nằm trực tiếp dưới các tầng trời. Cư dân ở đây là hạng a-tu-la,[9] được mô tả là phải chịu đọa đày vì sự kiêu ngạo, và trong đời sống của mình họ không ngừng gây chiến với chư thiên ở các tầng trời cao hơn.

Vây quanh núi Tu-di là đại dương. Tiếp theo bên ngoài là một lớp núi vàng ánh, kế đó lại là một đại dương khác. Cứ một vòng núi lại đến một vòng đại dương, nối tiếp cho đến vòng thứ 15 là vòng đại dương ngoài cùng, trong đó có các đại lục và những hải đảo phụ thuộc. Cuối cùng là một bức tường sắt bao quanh toàn thể vũ trụ.

Bên ngoài của vũ trụ như vừa được mô tả là một vũ trụ khác, cứ như thế nối tiếp vô biên vô tận. Mỗi vũ trụ đều khép kín trong một bức tường sắt che khuất ánh mặt trời, mặt trăng, và các tinh  tú. Bức tường sắt ấy là biểu tượng của bóng tối ngăn cách thế giới này với thế giới khác. Tất cả các vũ trụ đều chịu sự chi phối của một định luật tự nhiên gọi là nghiệp lực. Phật giáo không hề xác nhận hay phủ nhận sự hiện hữu của một đấng sáng tạo thế giới, nhưng định luật về nghiệp quả đã đưa ra một cách giải thích hợp lý và đầy đủ về các hiện tượng trong vũ trụ.

Những điều được mô tả cần phải được hiểu theo ý nghĩa tượng trưng hơn là những chi tiết cụ thể. Chẳng hạn núi Tu-di được mô tả là cao 80.000 dặm bên trên đại dương, và chiều sâu của chân núi ở dưới nước cũng tương đương như vậy. Ðại dương ở trong cùng cũng sâu và rộng 80.000 ngàn dặm. Vòng núi kế tiếp về phía ngoài có kích thước bằng một nửa, và đại dương vây quanh vòng núi ấy cũng vậy, nghĩa là chỉ có 40.000 ngàn dặm chiều sâu và rộng. Càng ra xa trung tâm, các vòng núi và đại dương phía ngoài càng giảm kích thước đi, cả về chiều cao, chiều sâu và chiều rộng. Cứ mỗi vòng lại giảm đi một nửa, nên kích thước giảm dần là 20.000 dặm, 10.000 dặm, 5.000 dặm, 2.500 dặm, 1.250 dặm, 625 dặm…

Trong số các đại lục, có 4 đại lục chính nằm ở 4 phương, được mô tả trong sách này. Nằm bên cạnh mỗi một đại lục lại có hai đại lục nhỏ hơn, đưa tổng số các đại lục lên số 12, là một số tượng trưng trong sự sắp xếp vũ trụ, tương tự như số 9.

Ðại lục ở phương đông là Ðông Thắng Thân Châu.[10] Hình tượng trưng của nó là hình mặt trăng lưỡi liềm, có màu trắng. Cư dân ở đó có khuôn mặt hình lưỡi liềm, có tinh thần bình thản và đức hạnh. Ðại lục này được mô tả là có đường kính 9.000 dặm.

Ðại lực ở phương nam là quả đất của chúng ta, có tên là Nam Thiệm Bộ Châu[11]. Hình tượng trưng của nó là hình xương bả vai của con cừu, nghĩa là giống hình quả lê, đó cũng là hình gần đúng với khuôn mặt của cư dân nơi đây. Ðại lục này có màu sanh dương. Tại đây cuộc sống giàu có phong phú và có sự lẫn lộn giữa cái tốt với các xấu. Với 7.000 dặm đường kính, nó là đại lục nhỏ nhất.

Ðại lục ở phương tây gọi là Tây Ngưu Hóa Châu[12]. Ðại lục này có hình mặt trời, màu đỏ. Cư dân ở đây có khuôn mặt tròn, rất mạnh bạo và có thói quen dùng súc vật để nuôi sống mình. Ðường kính của đại lục này là 8.000 dặm.

Ðại lục ở phương bắc gọi là Bắc Câu Lô Châu[13]. Ðại lục này hình vuông, có màu xanh lá cây. Cư dân ở đó có khuôn mặt hình vuông như hình mặt ngựa. Cây cối cung cấp thức ăn và các món cần dùng cho họ. Khi chết đi, họ thường quanh quẩn nơi các thân cây, như những thần núi hay thần rừng. Ðây là đại lục rộng nhất với 10.000 dặm đường kính.

Mỗi đại lục nhỏ nằm kế cận lại giống với đại lục mà nó phụ thuộc, và có kích thước bằng một nửa đại lục chính. Bên trái của Nam Thiệm Bộ Châu là thế giới của loài quỷ la-sát[14] hung dữ. Người ta tin rằng vị Ðại giáo chủ Liên Hoa Sanh hiện nay đang trị vì ở đó với mục đích là để giáo hóa cho loài la-sát hung ác này về lòng tốt và đường lối tu tập để đạt được giải thoát.

Ý nghĩa sâu kín ẩn sau những sự mô tả về vũ trụ như vừa trình bày trên là một phương thức tượng trưng đã được cố ý tạo ra. Chẳng hạn như, tiến sĩ Wadded đã nhận xét về cách mô tả núi Tu-di như sau: “Sườn phía đông của núi bằng bạc, sườn phía nam bằng vân thạch, sườn phía tây bằng ngọc đỏ, sườn phía bắc bằng vàng. Ðiều này chứng tỏ việc sử dụng các biểu tượng cũ, rất giống với các biểu tượng thiên khải của thánh Jean.”

Việc giải thích đầy đủ toàn bộ vũ trụ quan theo phương thức biểu tượng của Phật giáo sẽ còn phải đi rất xa, vượt ra ngoài khuôn khổ của phần dẫn nhập này. Ðể tạm kết thúc vấn đề, ở đây cần lưu ý một điều là : Các vị Lạt-ma Tây Tạng tin rằng họ đã nắm được những điểm then chốt để giải thích quan điểm về vũ trụ trong Phật giáo, và những gì mà người phương Tây đã biết về vấn đề này chỉ mới có thể giúp họ đến được nơi ngưỡng cửa để bước vào biển tri thức mênh mông này.


[1] Tiến sĩ Evans Wentz là người phương Tây đầu tiên nhận được bản dịch Anh ngữ của tập sách này và cũng là người xuất bản nó để giới thiệu với độc giả phương Tây. (Tất cả các chú thích trong sách này đều là của người biên soạn.)

[2] Ðây muốn nói đến hệ phái Theravãda.

[3] Svastika, tiến Sanskrit được người TrungHoa dịch là cát tường (         ), chính là dấu chữ vạn (    ) thường dùng trong Phật giáo.

[4] Chính là khái niệm Tứ đại (bốn yếu tố lớn), gồm có đất (tượng trưng cho trạng thái rắn), nước (tượng trưng cho trạng thái lỏng), gió (tượng trưng cho trạng thái chuyển động), lửa (tượng trưng cho năng lượng), cộng thêm với yếu tố không là yếu tố thứ năm và cũng là yếu tố bao quát tất cả.

[5] Ðây là nói chung về những người bình thường chưa có sự tu tập đạt đến chứng ngộ.

[6] Theo Duy thức học thì cá vẻ như tác giả đang đi vào khái niệm về A-lại-da thức, hay Tạng thức, còn được gọi là thức thứ tám (Ðệ bát thức).

[7] Ðiều này đã được đề cập đến trong một số kinh điển, và được giải thích là do những điều kiện bất lợi cho sự tu tập, chẳng hạn như cảnh giới của chư thiên là quá sung sướng, cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh là quá khổ sở…

[8] Samantabhadra: cảnh giới Phổ Hiền (             ).

[9] A-tu-la (         ), dịch âm từ tiếng Saskrit là ãsura, dịch nghĩa là phi thiên (        ), là loài giống chư thiên nhưng không có hình tướng nghiêm trang tốt đẹp, vì thế mà gọi là phi thiên.

[10] Ðông Thắng Thân Châu (         ), tiếng Phạn là Pũrvavidehah.

[11] Nam Thiệm Bộ Châu (           ), tiếng Phạn là Jambũdvipa.

[12] Tây Ngưu Hóa Châu (          ), tiếng Phạn là Avaragodãnĩya.

[13] Bắc Câu Lô Châu (           ), tiếng Phạn là Uttara-kuru.

[14] La-sát ( ), tiếng Phạn là rãkşasa, giống cái (nữ la-sát) gọi là rãkşasĩ.

Dịch từ bản tiếng Anh “The Tibetian Book of the Death” (Lạt-ma Kazi Dawa Samdup)

Nguyên tác: Bardo Thodol của Tây Tạng – Nguyên Châu – Nguyễn Minh Tiến Biên dịch

http://tuvien.com

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.