Người Tây Tạng Nghĩ Về Cái Chết: Người Chết Đi Về Đâu – Chương V

Theo luận vãng sanh, trong mỗi giai đoạn Bardo, thần thức đều có thể thể nhập pháp thân, với điều kiện là thần thức người chết không chạy theo ái dục của mình, thể hiện bằng những ánh sáng mờ đục. Nói trong ngôn ngữ của chúng ta, điều đó không gì khác hơn là hãy chống lại những thiên kiến duy lý và hãy từ bỏ cái ngã chấp vốn là nền tảng của lý luận. Ðây là một sự đầu hàng có di hại nặng nề trước sức mạnh khách quan của tâm thức, đây là một cách chết. Ðiều đó mang ý nghĩa chấm dứt sự điều khiển đời sống bằng ý thức duy lý, với tinh thần trách nhiệm cao, và tự đặt mình dưới điều mà luận Bardo Thődol gọi là “ảo giác của nghiệp lực”. Ảo giác nghiệp lực nói lên một tư tưởng hay một thế giới quan hết sứcphi duy lý, hoàn toàn không phù hợp với lý trí thông thường, mà xuất phát từ một sự tưởng tượng quá mức. Ðó chẳng qua là một giấc mộng, một sự mơ tưởng. Một con người bình thường không ai có thể chấp nhận được, tư tưởng đó không khác gì tư tưởng của một người điên. Thông thường, ta chỉ cần nhận xét một câu “tâm hồn kém cỏi” về tư tưởng đó là đủ.

Sự sợ hãi và tối tăm của giai đoạn này nằm trong phần đầu của Sipa-Bardo.Nhưng nội dung của Bardo này lại chứa đựng những dạng thể uyên nguyên, những hình ảnh nghiệp lực, xuất hiện dưới dạng đáng sợ. Còn giai đoạn Tschőnyi mang tính chất tâm lý nhiều hơn.

Chúng ta đã đọc và nghe nhiều về sự nguy hiểm của Yoga, nhất là về cái đáng sợ của phép luyện hỏa hầu.[19] Có nhiều người, vì khó khăn gì đó, phải dùng mọi cách biến thể, sống trong một trạng thái tâm lý khác, đây là một nguy hiểm đáng sợ, phải tránh không nên tham dự vào. Dù vậy cũng có lúc cần làm: đó là một sự can thiệp vào số phận, chạm đến phần sâu thẳm nhất của con người, mở lối đi vào nguồn gốc của khổ đau, mà tâm tư bình thường không ai dám nghĩ tới. Chính đây là giai đoạn địa ngục trong Sipa-Bardo, Luận vãng sanh viết:

“Rồi thần chết sẽ cột cổ ngươi, xé xác ngươi, ăn thịt ngươi… Nhưng ngươi không thể chết, dù thân xác ngươi bị xé ra làm trăm ngàn mảnh…”

Sự tra tấn này nói về tính chết nguy hiểm rất rõ rệt: đó là nói về sự tan rã của“thân” trong giai đoạn trung ấm, trong đó tâm thức bổng biến thành một thân mong manh nhẹ bổng, không thể nhìn thấy được. Trong tâm lý thì sự “xé xác”này chính là sự rời rã tâm lý, tâm hồn bị chia chẻ. Chứng bịnh tâm lý thông thường này cũng hay bị gọi là “suy sụp tinh thần”, thường là sự mất bản năng kiềm chế vốn xuất phát từ ý thức, cộng thêm với trò chơi điên rồ của các ông vua trong tiềm thức.

Giai đoạn chuyển tiếp giữa Sipa và Tschőnyi như thế là một khúc quanh nhuy hiểm của những khuynh hướng và sở cầu của ý thức, một sự chối từ sự vững chắc của một cái tôi kiên cố, mà chấp nhận sự bất trắc của những hình ảnh hỗn loạn đem lại. Freud mô tả cái tôi chính là “sào huyệt của cái sợ”. Ông đã nói rất đúng và rất sâu sắc, một cách trực giác. Sự sợ hãi mất mát chính mình rình rập sau mỗi cái tôi, và chính cái sợ này biểu hiện thành đòi hỏi được có nhiều quyền năng, được sử dụng quyền năng đó. Không có sự hình thành cá nhân nào thoát khỏi được khúc quanh nguy hiểm này, vì trong toàn bộ tâm thức con người cũng có cái đáng sợ, thế giới tầng dưới hoặc tầng trên của các vị vua tâm thức,[20] mà từ thế giới đó cái tôi đã sanh ra, vùng dậy tìm kiếm chút tự do giả tạo.

Tất nhiên sự giải phóng này là một thắng lợi cần thiết, nhưng không phải là một thắng lợi trệt để, vì cái tôi mới chỉ thiết lập được cái chủ thể, mà chủ thể lại cần có khách thể  mới ra nghĩa chủ thể. Thế giới trước hết hiện ra khi chủ thể tự phóng chiếu ra ngoài. Chủ thể tự tìm và tự thấy khó khăn của mình, kẻ thù của mình, người thân thương và những gì quí báu, và hay nhất là biết rằng, tất cả những gì tốt xấu, có tính chất tinh thần không phải là khách quan nữa. Ta có thể vượt lên, hủy diệt hay hoan hỷ với chúng.

Nhưng tình trạng tuyệt vời này của chủ thể không kéo dài được lâu. Ðã có và có nhiều người đi tới cách nhìn cho rằng thế giới tự nó  và sự cảm nhận về thế giớivốn chỉ là một, là hiện thân của những gì rất sâu kín trong tâm thức, của một thực thể siêu việt cái tôi. Theo Mật tông Tây Tạng thì tri thức sâu kín này chính làTschőnyi-Bardo, cho nên giai đoạn này của thần thức cũng được mang tên là “giai đoạn cảm nhận được chân như”.

Chân như là đối tượng được cảm nhận trong giai đoạn Tschőnyi, như Luận vãng sanh chỉ rõ trong phần cuối của Tschőnyi-Bardo, là “chân như của tư tưởng”. Các dạng tư tưởng biến hiện thành hiện thực, tưởng tượng biến thành hình ảnh cụ thể và những năng lực tưởng chừng như chỉ nằm trong giấc mộng bỗng trỗi dậy. Trước hết hiện lên một tổng thể gồm toàn thần chết và sau đó là 28 vị nữ thần quyền năng, đáng sợ; sau đó là 58 vị thần uống máu.[21] Dù hình ảnh ma quỷ hết sức lộn xộn, ở đây ta có thể xác định một số qui luật. Ðó là các vị thần với quyến thuộc của mình hiện ra từ bốn phương trời và có màu sắc huyền bí khác nhau. Rõ nét dần là các vị thần hợp thành những linh phù,[22] gồm có bốn màu sắc hợp lại. Bốn màu sắc dựa trên bốn trí:

–         Màu trắng : Ðại viên cảnh trí

–         Màu vàng : Bình đẳng tánh trí

–         Màu đỏ : Diệu quán sát trí

–         Màu xanh lục : Thành sở tác trí

Trong mức độ cao hơn, thần thức biết rằng những hình ảnh cụ thể thật ra là do chính thần thức phóng ra, và bốn trí nói trên chính là khả năng tâm lý của chính thần thức. Nói đến đây, chúng ta đã vào hẳn trong nền tâm lý học của Mật tông,mà tôi đã bàn đến trong cuốn Das Goheimnis der goldenen Blüte,[23] do richard Wilhelm  xuất bản.

Ði ngược cuốn sách, sau giai đoạn Tschőnyi là đến lúc hình ảnh chư Phật hiện ra : Phật Bất Không Thành Tựu màu xanh lục, Phật A-di-đà màu đỏ, Phật Bảo Sanhmàu vàng, Phật Bất Ðộng màu trắng, và cuối cùng là pháp thân thanh tịnh màu xanh ở trung tâm của linh phù, xuất phát từ  trái tim của đức Phật Ðại Nhật.

Với sự xuất hiện các vị Phật, nghiệp lực và ảo giác của nó chấm dứt, tâm thức giải thoát khỏi mọi ràng buộc của sắc giới và trở về với pháp giới vô sanh vô tử.Như thế, đi ngược cuốn sách, ta đạt tới giai đoạn Tschikai, giai đoạn lúc cái chết vừa đến.

Tôi cho rằng như thế là đã giới thiệu khá đủ về nội dung tâm lý của cuốn Luận vãng sanh Bardo Tschőnyi này. Cuốn luận trình bày một phương thức khơi mở,ngược lại với cách nhìn của Thiên chúa giáo chuẩn bị cho một cuộc sống vật chất. Ðối với người châu Âu duy lý, có lẽ nên khuyên rằng, nên quay ngược cuốn luậnBardo Tschőnyi này và lắng nghe sự mô tả những biến cố, đồng thời thay các vị thiện thần, ác thần trong Tschőnyi-Bardo bằng các biểu hiện của Thiên chúa tùy ý.

Trong mọi trường hợp, diễn tiến của các biến cố đi song hành với hiện tượng luận của tiềm thức châu Âu, khi tiềm thức đó bị phân tích. Trong quá trình phân tích thế nào cũng xảy ra những diễn biến của tiềm thức. Ðiều đó khá tương tự với quá trình khai thị hay điểm đạo trong các tôn giáo. Tất nhiên là trong tôn giáo không còn sự tự động phát khởi mà thay vào đó bằng những biểu tượng có tính chất truyền thống, ví dụ như trong cách tu tập của Ignatius hay trong thiền định quán tưởng Yoga của Mật tông Phật giáo.

Cách xoay ngược tập luận do tôi đề nghị chẳng qua chỉ là để dễ hiểu hơn, tất nhiên không nằm trong dụng ý của tập sách. Ngay cả việc phân tích tâm lý tập luận này, nhiều lắm cũng chỉ đạt được mục đích phụ của các ngài Lạt-ma. Mục đích chính của tập luận hiếm có này – xa lạ đối với những trí thức châu Âu của thế kỷ 20 – là cố sức giảng giải cho người đang chết. Ðối với người châu Âu, nhà thờ Thiên chúa là nơi độc nhất trên thế giới còn nói điều gì đó với người đang chết. Trong đạo Tin Lành, chỉ còn một và nơi quan tâm tới người chết, vốn không hay biết họ đã chết. Ngoài ra, tại phương Tây chúng ta không có gì có thể so sánh được với luận Bardo Thődol, trừ ra một vài tập sách bí mật, không dành cho quảng đại quần chúng hoặc cho khoa học. Theo truyền thống của chúng ta, có lẽ cũng phải liệt kê tập luận Bardo Thődol này vào loại mật thư. (Xem bài dẫn nhập của Evans Wentz).

Tập sách này chủ yếu quan tâm lo lắng cho người chết, kéo dài sau cả cái chết. Sự cúng tế thông thường cũng bắt nguồn từ niềm tin rằng tâm thức con người còn tồn tại sau khi chết. Về mặt tình cảm thì người sống ai cũng có mong ước làm được gì đó cho người chết. Ðó là một nhu cầu cơ bản, dù cho người duy lý nhất cũng sẽ nghĩ tới khi người thân hay bạn bè của mình mất đi. Vì vậy chúng ta có biết bao nhiêu phong tục xoay quanh cái chết, dù cho sự giải thích có phần khác nhau.

Ngoài các lễ cầu hồn của nhà thờ Thiên chúa thì cách lo lắng cho người chết của chúng ta dừng lại ở mức độ thấp kém nhất, không phải vì chúng ta không tin là tâm thức còn tiếp tục sống, mà là vì ta cắt bỏ quá nhiều – một cách duy lý – yêu cầu của tâm thức. Chúng ta làm như mình không hề có nhu cầu tâm thức, và vì cũng không thật tâm cho rằng còn lại gì đó sau cái chết. Vì thế, ta không làm gì cả! Còn những tâm lý ngây thơ thì chúng ta lại tin là thật và vun đắp. Chẳng hạn như ở Ý, những nhà mồ rất đẹp, đẹp một cách đáng sợ. Về các buổi cầu hồn thì mức độ có cao hơn, dành nhiều tình cảm tha thiết cho người chết chứ không phải để khóc lóc cho thỏa lòng.

Tuy nhiên, phải nói rằng điều quí giá nhất cho người chết chính là những lờikhai thị trong Bardo Thődo. Những lời đó phù hợp, chỉ thẳng vào tình trạng đổi thay của người chết. Mỗi độc giả nghiêm túc sẽ tự đặt câu hỏi, phải chăng các vịLạt-ma khả kính sẽ nói về chiều thứ tư và nhờ thế vén được bức màn bí mật của đời sống chúng ta?

Nếu sự thật cuối cùng bao giờ cũng là một sự nhầm lẫn, phải chăng ta có thể chấp nhận được một vài điều có thật trong cảnh thân trung ấm? Dù sao đi nữa, cũng là một điều lạ lùng khi cho rằng cảnh tượng sau cái chết – các tôn giáo có đủ mọi cách tưởng tượng về cảnh này – chủ yếu là một giấc mơ đáng sợ, với diễn tiến ngày càng tệ hại hơn. Năng lực đạt đạo cao nhất, không phải trong giai đoạn cuối của thân trung ấm, mà là ngay từ đầu, ngay trong thời điểm của cái chết, và những gì xảy ra sau đó là một sự trượt dần vào ảo giác và vô minh, cho tới lúc tái sanh vào thế giới vật chất.

Như thế, mức độ cao nhất của tinh thần đạt được ngay vào cuối đời. Cuộc đời con người là một phương tiện có thể đạt tới mức toàn giác, nhưng chính những nghiệp lực làm cho thần thức người chết không nhận ra được ánh sáng của tánh không, và vì thế lại rơi vào vòng sanh tử luân hồi, không giải thoát khỏi ảo giác của sanh thành hoại diệt. Giai đoạn thân trung ấm không phải là cảnh giới của ân sủng hay trừng phạt miên viễn, mà chỉ là giai đoạn rơi xuống một đời sống mới, đời sống này mang con người tới gần đích giải thoát thêm một bước nữa. Ðây chính là mục đích cao tột, cuối cùng của tất cả cố gắng trong kiếp người. Ðây là một quan điểm cao đẹp, phải nói đúng hơn là một quan điểm hướng thượng mạnh mẽ.

Tình trạng ngày càng xấu đi của giai đoạn mang thân trung ấm được các sách huyền bí phương Tây xác nhận, trong đó có cả những câu chuyện tầm thường về việc trao đổi thông tin với người chết. Cách nhìn khoa học của chúng ta tất nhiên không ngại ngùng cho rằng những chuyện ma quỷ đó chỉ là phát ngôn của tiềm thức những ông đồng bà bóng và giới cầu cơ, và áp dụng cách giải thích đó về cảnh tượng bên kia thế giới của luận vãng sanh này. Rõ ràng, Luận vãng sanhcũng đã dựa trên những dạng thể uyên nguyên của tiềm thức. Chúng ta, ở phương Tây, cũng có lý khi nói rằng đằng sau những hiện tượng đó không phải là những thực tế vật chất hay thực tế siêu hình gì cả, mà chỉ là những dạng thể của tâm thức biến hiện ra. Liệu đó là cái gì, chủ quan hay khách quan được biến hiện thì chưa rõ, nhưng quả là có biến hiện. Luận vãng sanh Bardo Thődo cũng không nói nhiều hơn, vì chính năm vị Phật cũng là do tâm thức biến hiện, và người chết nên nhận ra điều đó, nếu lúc còn sống người đó chưa từng nhận ra rằng chính tâm thức mình và “đấng sáng thế” chỉ là một, không khác. Thế giới của thần thánh ma quỷ không có gì khác hơn là tiềm thức tập thể chứa đựng trong mỗi cái tôi. Nói ngược lại câu này sẽ là: Tiềm thức là thế giới thần thánh ma quỷ nằm bên ngoài cái tôi. Muốn nói ngược như thế, không cần trình độ khéo léo gì của tri thức cả, nhưng cần đến cả một đời người, thậm chí có thể là nhiều đời, để càng lúc càngtoàn diện. Tôi cố tình không dùng từ toàn hảo, vì từ này sẽ đưa tới những khám phá khác.

Luận vãng sanh Bardo Thődo là một cuốn sách bí mật và sẽ tiếp tục bí mật, dù ta có viết gì về nó. Vì muốn hiểu được nó, ta cần có một khả năng tâm linh đặc biệt. Không phải ai cũng có, mà chỉ những ai có một đời sống đặc biệt, một kinh nghiệm đặc biệt, mới có được khả năng tâm linh đó. Cũng là một điều hay nếâu về mặt nội dung và mục đích có được nhiều cuốn sách “vô ích” như thế này, loại sách chỉ dành cho những người không còn quá coi trọng những cái gọi là “lợi ích”,“mụch đích”, “ý nghĩa” của “nền văn hóa” hiện nay của chúng ta.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.