Con xin hỏi về việc bắt ấn khi trì chú ?

2/. VẤN: Con nghe và đọc rất nhiều kinh điển thì đều thấy các vị Phật và Bồ Tát khi phát nguyện đều có một bài chú hay kinh kệ riêng nếu ai hành trì thì đều được lợi lạc, được các ngài gia hộ và cũng như thấy sự linh ứng trong sự gia trì của mình. Tuy vậy con không hiểu tại sao có người trì kinh hay chú mọi việc đều vuông tròn, sở cầu như nguyện còn có người thì bị phản tác dụng, không có hiệu quả mà còn xảy ra rất nhiều tai ương. Xin Sư cho con biết với một Phật tử bình thường như con nên trì kinh chú nào là tốt nhất? Khi trì kinh chú thì nên làm gì để đạt được hiệu quả ạ.

ĐÁP: Kinh chú của Phật tức là pháp Phật, pháp Phật thì có vô lượng pháp môn để đối trị chữa lành vô lượng phiền não trần lao của vô lượng chúng sanh.

Chúng sanh trong thế giới ta bà là bộc lưu dẫy đầy những tham sân si phiền não, khổ não vui buồn lẫn lộn. Dù biết khổ đau nhưng không ai muốn bước ra khỏi những khổ đau đó; thường thì họ sợ những hoàn cảnh trái ngang tử biệt sanh ly, hòa họp ly tan, sanh diệt diệt sanh trong thế giới thường trụ hoại không. Rốt rồi chỉ biết cất tiếng than ôi ! khổ quá! là một điệp khúc muôn đời mê li, không bao giờ chán ngán!
Trong vô lượng chúng sanh đó có con người, có trí khôn biết giác ngộ, quay về với cuộc: “hành trình trở về nơi sanh ra, dừng chân tạm nghỉ nhà bà quán một đêm rồi ngày mai lại ra đi về cố quận…”.

Một đêm là một đời “thân thì sanh lão bệnh tử khổ, bát khổ; tâm thì có biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn”.

Con người vì muốn ra khỏi nơi khổ đau nên tìm nương vào chánh pháp, chọn lựa pháp môn tu cho phù hợp với hạnh nguyện. Nhưng tiếc thay khi phát tâm tụng kinh niệm Phật hành trì kinh chú Phật, càng tinh tấn tu bao nhiêu có người thì ra khỏi khổ đau, có người thì phản tác dụng càng thêm khổ đau bấy nhiêu?

Trước khi hóa giải những nan giải, Sư xin nói: “việc tu hành giải thoát khổ đau là việc của chúng ta, còn việc khổ đau đến với chúng ta là vòng xoay của nghiệp lực quả báo ; chứ không phải do tu hành, mà khổ đau đến với chúng ta các bạn ạ…”

Kinh chú của Phật có công năng làm cho con người hết khổ đau, tuy nhiên những khổ đau được vô hiệu hóa bằng cõi tâm, nên các khổ đau dù có xâm phạm, chắc chắn cũng không làm người tu bị khổ đau. Nên không có vấn đề phản tác dụng trong tu hành.

Ngộ Đạt quốc sư, đời nhà Tấn bên Trung Hoa mới 15 tuổi đã giảng kinh Niết Bàn đến các Hòa Thượng cũng phải ngồi nghe. Khi lớn lên được vua nhà Tấn dời vào hoàng cung phong làm Quốc sư giảng kinh cho Vua nghe, Vua ái mộ sai người làm một tòa ngồi bằng trầm hương cho Quốc sư ngồi thuyết giảng. Kể từ khi ngồi ghế trầm hương thuyết giảng, một mụt ghẻ lớn như mặt người xuất hiện trên bắp đùi làm cho ngài đau nhức, mụt ghẻ mặt người nói: “tôi là Triệu Thố cách đây 500 năm, ông làm quan Án Sát xử tôi bị chết oan, tôi theo đuổi ông đã 500 kiếp để báo oán, song ông tu hành đức độ nên tôi không báo oán được. Nay ông thọ nhận tòa trầm hương và lên ngồi trên đó, đã giảm phước, tôi có cơ sở báo oán và “làm ông đau nhức”.

Ngộ Đạt hối hận, do đau nhức làm ngài ngất xỉu, trong cơn mê có Bồ tát Ca Nhã Ca (Quán Âm bồ tát) đến nói: “ông nên đi lên trên đỉnh núi, đến suối Ngọc Tuyền lấy nước suối mà rửa mụt ghẻ thì sẽ khỏi bệnh”. Sáng hôm sau khi tĩnh lại ngài nhớ lời dạy của Bồ Tát đi lên đỉnh núi, đến suối Ngọc Tuyền quỳ sụp lạy niệm danh hiệu Bồ Tát Quan Âm làm văn thủy sám phát nguyện sám hối lỗi lầm, lấy nước suối rửa sạch mụt ghẻ, mụt ghẻ mặt người nói: “từ đây tôi không làm đau đớn ông nữa do ông có công tu hành biết nghe lời Đức Bồ tát Quan Âm dạy bảo. Từ đó Ngộ Đạt càng tinh tấn tu hành, tiếp tục thuyết pháp độ sanh và soạn sám văn “Từ Bi Thủy Sám” cho đời sau tụng đọc.

Mỗi Đức Phật ra đời đều vì hạnh nguyện lớn cứu chúng sanh, đưa chúng sanh ra khỏi những khổ đau. Tuy nhiên việc giúp chúng sanh ra khỏi khổ đau không chỉ có vài câu kinh tiếng kệ vừa học đọc là được, không đủ lực để hóa giải khổ đau.

Thế thường quan niệm: “tụng kinh thì hết khổ, hết tai ươn… cúng chùa thì được phước, nếu không thì gọi là phản tác dụng”.

Việc quy y Phật, giải thoát khổ cho mình thì rất dễ, nhưng việc muốn hóa giải cho người tha nhân thoát khổ đau, thì đòi hỏi thời gian công phu tu tập, giúp cho tha nhân ngộ lý vô thường, khổ không, vô ngã các bạn ạ!

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngài cũng có hạnh nguyện mà xưa nay ít Phật Tử chú ý để học tập mà phát nguyện lớn như ngài, dù có trải qua muôn ngàn phong ba bảo táp nhưng ngài vẫn thệ nguyện không thối chuyển, bài kinh như sau:

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành

* Chúng sanh là tất cả những người đồng chung sống với mình, có đủ những phiền não tham sân si, hỉ nộ ái ố, không lúc nào vượt khỏi (vô biên) người Phật tử phát nguyện tu hành như Phật để vượt qua (độ) khỏi những ái ố khổ đau đó chứng quả niết bàn giải thoát. Tiếp đến xin phát nguyện hướng dẫn cho chúng sanh phát tâm thoát ra khỏi những phiền não tham sân si như chính mình.

* Tất cả những phiền não như: sanh lão bệnh tử, những thứ tham sân si, mạn nghi, ác kiến… nhìn chung gọi là những vọng niệm làm cho chúng sanh bị quây cuồng trong nhà lữa tam giới, nhận đủ những khổ đau vui buồn ràng buộc… nay phát nguyện tu hành vượt ra khỏi những ràng buộc đó, đồng thời đem những kinh nghiệm tu tập của mình giúp cho mọi người giải thoát như mình.

* Trong thế gian nầy có bao nhiêu pháp môn tu, có bao nhiêu kiến thức giỏi, bao nhiêu kinh nghiệm giúp đời ta nguyện đều học tất cả; dù các pháp đó ở trên niết bàn hay ở địa ngục, ta cũng đều chấp nhận thọ học, có phát tâm thọ học thì mới có phương tiện gần gủi chúng sanh mà tiếp độ họ. Các pháp trong thế gian thuộc về hữu học, như tứ diệu đế cần phải học để vượt khỏi khổ đau, các pháp xuất thế gian thuộc về vô học như lục độ vạn hạnh học cách giúp người cứu người, cho nên đối với Đức Phật trong ba đời lúc nào ngài cũng học, vì học cho nên nói trí tuệ Phật là vô biên xé tan mọi phiền não, vạch hướng đi thiết thực cho chúng sanh và loài người ra khỏi bến mê.

* Và cuối cùng, dù trải qua muôn ngàn khổ đau chướng ngại, nhưng Đức Phật vẫn nhắm thẳng mục tiêu cứu cánh niết bàn, bất thối chuyển. Từ đó ngài mới có đủ phương tiện lực độ tha, cứu vớt muôn loài và thành tựu đại nguyện. Nếu không được vậy thì thệ không thành Phật.

Kinh hay chú lực của Đức Phật, Bồ tát chẳng qua là phương tiện giáo hóa cho muôn loài trong đó có chúng ta, là một lực đẩy vô biên hiệu quả vô cùng, nếu chúng ta biết phát nguyện và làm đúng theo ý nguyện của ngài.

Chúng ta tu hành mà còn khổ đau là vì còn cố chấp với pháp của Phật, pháp Phật nói một đường, ta hiểu một ngã, Phật nói đằng đông ta hiểu đằng tây, Phật dụng tâm ta dụng tướng nên khổ. Sau khi thọ học pháp Phật, ta thực hành đúng như ngài giáo hóa thì chắc chắn hết khổ.

Ví dụ: khi tụng bài chú Án Ma Ni Bát Di Hồng, Án Chiếc Lệ Chủ Lệ Chuẩn Đề Ta Bà Ha… chú lực có công năng phá tan si ám, tịnh trừ tham dục, sân si, những tà niệm ái nhiễm (khổ)… khi được chú lực gia hộ thì chính mình cũng phải thực hành những lời dạy của Phật xả bỏ những ái dục tà nhiễm thì trí tuệ sanh, tuệ sanh thì không làm việc xằng bậy, không làm việc xằng bậy thì không khổ, chú lực của Bồ tát làm cho hết khổ là như vậy.

Ngược lại nếu tụng chú lực của Bồ tát, mà hằng ngày vẫn làm ác, niệm ác vẫn dấy sanh, thì chính chú lực ấy là lực đẩy đưa ta đến chỗ khổ đau; lý do ỷ lại vào chú lực gia hộ cho tai qua nạn khỏi, nhưng không khỏi, vì có ta nên các pháp giả hợp lúc nào cũng ở một bên ta, ta thấy nó là thật, nên tụng chú mà vẫn thấy khổ đau.

Tụng kinh chú mà vẫn khổ là do mất chánh niệm, vì mất chánh niệm nên thấy khổ, có chánh niệm nên thấy “các pháp vốn giai không”, “ngũ uẩn giai không” , “không có ta” nên dù “có nghiệp khổ thật” những vẫn không thấy có khổ đau, đấy chính là tác dụng của chú lực, được Đức Bồ Tát Quan Âm độ cho vượt qua khổ nạn: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha” – vượt qua, vượt qua, mọi người đều vượt đến bến bờ bên kia, được giải thoát an lạc.

Người Phật tử biết phát tâm tụng kinh chú là quý báu lắm rồi, kinh nào cũng tốt không nên chọn lựa vẽ vời mà mất chánh niệm. Hiệu quả tu hành theo giáo lý nhà Phật là: “tâm thoát khỏi những mê lầm, tâm chánh niệm thì an lạc Niết Bàn”.

Người tu tinh tấn, siêng năng đọc tụng kinh chú Phật mà tai ươn vẫn đến với mẹ cha, phải tự nghĩ: “là do nghiệp lực đời trước ta đã tạo, nay đủ yếu tố đủ điều kiện nghiệp cũ đến đòi, quả khổ phát sanh”, nên sám hối giúp cha mẹ và tự nghĩ :”cha mẹ có bệnh khổ cũng là phương tiện giúp cho ta có cơ sở báo hiếu báo ân”.

Phật tử nên phát nguyện, phát lồ sám hối những nghiệp ác vô tình hay cố ý đã tạo trong quá khứ, nay không làm nữa… thường xuyên quán chiếu thân là vô thường, khổ không, vô ngã, giữ tâm niệm như thế tai ươn họa khổ lần lượt tan biến.

3/. VẤN: 
Con đọc kinh điển và lịch sử Phật Giáo thì thấy ngày xưa các vị tổ sư đều có tục lệ truyền y bát cho vị đề tử chân truyền của mình? Vậy việc truyền y bát này bắt đầu từ đâu và với ý nghĩa gì? Ngày nay có còn tục lệ này không ạ?

ĐÁP: 
Y Bát có từ thời kỳ Đức Phật:

Thông thường xá-lợi của đức Phật gồm có ba loại: thân xá-lợi (di cốt còn lại sau lễ trà tỳ kim thân của đức Phật như: xương, răng, tóc…), tùy thân xá-lợi (những vật dụng mà đức Phật thường dùng khi còn tại thế như y, bát, tích trượng, tọa cụ…), và pháp xá-lợi tức là những kinh điển hay pháp và luật mà Ngài đã truyền dạy. Trong Phật giáo, y và bát của đức Phật được tôn trọng, kính ngưỡng vì chúng không chỉ được xem là những phần xá-lợi gắn liền với cuộc đời đức Phật Thích-ca mà còn là những vật truyền thừa của chư Phật trong nhiều đời.

Theo kinh Bổn Sanh, sau khi vượt thành xuất gia, thái tử Sĩ-đạt-đa nghĩ rằng bộ y phục sang trọng may bằng lụa xứ Ba-la-nại mà mình đang mặc chẳng hợp với những ai đang vân du khắp nơi để tầm cầu chân lý và vì thế thái tử đã đổi nó để nhận một bộ y phục nhạt màu từ một người thợ săn vốn là hoá thân của một Phạm thiên. Bộ y phục này được xem là khởi đầu cho truyền thống mặc y phấn tảo hay y bá nạp (loại y được may từ những mảnh vải rách lượm từ đống rác hay nghĩa địa được giặt sạch) trong Tăng đoàn.

Trong thời gian du hóa, đức Phật đã được nhiều vị gia chủ cúng dường những tấm lụa quí hiếm, nhưng Ngài đều giao lại cho đệ tử mình tùy nghi sử dụng. Có một lần bác sĩ Kỳ-bà được bệnh nhân tặng một xấp vải quí, không dính nước, đáng giá mười vạn đồng như là tiền thù lao của mình. Bác sĩ bèn đem vải dâng cúng cho đức Phật. Đức Phật đã trao vải lại cho tôn giả A-nan và tôn giả đã cắt vải may y cho đức Phật, La-hầu-la và các tỳ-kheo khác. Di mẫu Kiều Đàm dùng tơ quí dệt thành một bộ y và đem dâng cúng lên đức Phật, đức Phật từ chối, Di mẫu tỏ ra không vui và thưa rằng bà đã từng nuôi nấng đức Thế Tôn trong thời thơ ấu và nay thì chính tay bà đã dệt bộ y này với mục đích duy nhất là cúng dường cho đức Phật. Đức Phật liền bảo bà nên đem cúng bộ y ấy cho chư tăng vì Tăng là ruộng phước, cúng dường chư Tăng cũng chính là cúng dường Phật. Sau đó Di mẫu đến giữa Tăng đoàn và cúng bộ y này cho tôn giả Di-lặc. Ngoài chuyện Di mẫu dâng cúng y cho đức Phật, kinh điển Phật giáo còn ghi lại chuyện tôn giả Đại Ca-diếp đổi y Tăng-già-lê mềm mại của mình để nhận tấm y phấn tảo của đức Phật. Tôn giả vốn thường thực tập hạnh đầu đà nhưng vẫn chưa tìm được một tấm y phấn tảo thích hợp nào. Một lần nọ đức Phật đến thăm lúc Tôn giả đang ở dưới một gốc cây, Tôn giả bèn gấp y Tăng-già-lê của mình và thỉnh đức Phật ngồi lên tấm y đó. Khi nghe đức Phật khen tấm y mềm mại, Tôn giả thành tâm xin được cúng dường tấm y của mình cho đức Phật và mong được thọ trì tấm y phấn tảo mà đức Phật đang dùng. Đức Phật biết Tôn giả đang cần y phấn tảo để thực hành hạnh đầu đà nên Ngài hứa khả. Sau khi nhận được y, tôn giả đã sử dụng nó cho đến cuối đời mình.

Các văn bản Phật học Pāli dường như không nói nhiều về tấm y mà đức Phật dùng trong những năm du hoá cuối đời và khi Ngài nhập diệt. Sách Pháp Uyển Châu Lâm có thuật lại chuyện về tấm y Tăng-¬già-lê của đức Phật do một vị trời Tứ Thiên Vương kể cho luật sư Đạo Tuyên như sau. Trước khi nhập diệt ba tháng, đức Thế Tôn bảo ngài Văn Thù triệu tập đại chúng tại đạo tràng. Khi hội chúng đã vân tập, đức Phật bèn kể rằng sau khi vượt thành xuất gia và đổi y phục cho một người thợ săn, Ngài được một vị thần dâng lên y Tăng-già-lê của đức Phật Ca-diếp theo như lời phó chúc của đức Ca-diếp. Sau ngày thành đạo đức Phật đã thọ trì và giữ gìn tấm y này một cách cẩn thận suốt năm mươi năm. Theo tác phẩm Ðại Ðường Tây Vực Ký của ngài Huyền Trang, khi hay tin đức Phật nhập diệt, Ma-da phu nhân cùng chư thiên từ cung trời Đao Lợi đã đến Câu-thi-na để chiêm ngưỡng lần cuối kim thân cùng y Tăng già lê, bình bát và tích trượng của đức Phật. Cũng theo ngài Huyền Trang, khi đến thành Ê-la ở Tây Bắc Ấn, Ngài đã được chiêm ngưỡng xá-lợi và y Tăng-già-lê của đức Phật. Theo bộ Phật Sử, sau lễ trà tỳ tại Câu-thi-na, xá-lợi của đức Phật được sứ giả tám nước mang về xây tháp cúng dường; những vật tùy thân khác của Ngài được đưa về thờ ở nhiều nơi khác nhau như bình bát và tích trượng ở Vajirā, hạ y ở Kus¬aghara, thắt lưng ở Pāṭaliputra, y tắm ở Campā, Pháp y ở cung trời Phạm thiên.

Cùng với y, bình bát của đức Phật cũng được xem như xá-lợi của đức Phật và là bảo vật truyền thừa của chư Phật. Theo các sử liệu Phật giáo của cả hai truyền thống Nam và Bắc truyền, thì sau khi thành đạo dưới cội Bồ-đề, đức Phật đã thọ dụng bữa ăn đầu tiên vào tuần thứ tám do hai thương gia Đề Vị và Ba-lỵ dâng cúng. Khi được hai thương gia dâng cúng thực phẩm, đức Phật liền nghĩ rằng chư Phật trong ba đời đều dùng bình bát để thọ dụng vật thực, nay ta cũng nên theo truyền thống này.

Cuối thế kỷ thứ 4, khi ngài Pháp Hiển đến khu vực Kiền-đà-la, Ngài đã có duyên được chiêm ngưỡng và lễ bái bình bát khất thực nói trên của đức Phật trong một tu viện tại đó. Theo ngài Pháp Hiển, khi vua Nguyệt Dân chinh phạt nước này, vua muốn mang bình bát về nước mình để thờ phụng nhưng dù bằng mọi cách khác nhau, ngay cả khi dùng sức của tám voi, vua cũng không cách nào đem bình bát đi được. Nghĩ rằng nhân duyên chưa đến, vua bèn xây bảo tháp cùng một ngôi già lam để thờ bát. Hằng ngày, trước giờ ngọ và vào ban đêm, chư Tăng và tín đồ được phép đến lễ bái, cúng dường bát. Điều lạ là khi những người nghèo dâng cúng một vài vòng hoa thì hoa nở rộ đầy bát, còn khi những phú gia đặt hàng trăm vòng hoa vào bát, bát vẫn không khi nào đầy. Hơn hai thế kỷ sau khi ngài Huyền Trang đến nơi này, bình bát nói trên không còn nữa và chỉ còn lại bệ thờ của bình bát mà thôi. Ngài Huyền Trang cũng cho biết rằng bình bát đã di chuyển đến nhiều nước và vào thời điểm đó bình bát hiện đang ở xứ Ba Tư.

Khi đến Tích Lan, ngài Pháp Hiển có gặp một nhà sư Ấn Độ và vị này cho biết rằng bình bát khất thực của đức Phật vốn được thờ tại Tỳ-xá-ly và sau đó cứ vài trăm ngàn năm sẽ tuần tự di chuyển đến các nước khác nhau như Càn-đà-la, Kế Tân, Tích Lan, Trung Hoa… và cuối cùng thì quay lại Ấn Độ. Khi đức Di -lặc thành đạo có bốn vị Thiên vương mang bốn bình bát này dâng lên đức Di Lặc. Ngài Pháp Hiển cho rằng chư Phật trong hiền kiếp đều có chung một truyền thống nhận bát như thế.

Bình bát của đức Phật được xem là một bảo vật luôn mang lại nhiều phước lành cho nhân gian, là biểu tượng cho sự hưng hiển của chánh pháp. Khi bình bát này được mọi người tôn thờ và giữ gìn cẩn thận thì lúc đó chánh pháp được vững mạnh. Lúc bình bát bị vỡ hay sắp biến mất cũng là lúc báo hiệu cho thời kỳ mạt pháp. Khi bình bát này di chuyển đến nước nào thì nơi ấy tai ươn, ách nạn tiêu trừ, mùa màng đượm nhuần, chánh pháp hưng hiển, vua chúa nhân từ, muôn dân đều sống trong thanh bình và an lạc. Cho đến thời kỳ mạt pháp, lúc những điềm xấu như bệnh dịch, mất mùa, thiên tai xuất hiện, thọ mạng loài người ngắn dần, thực phẩm trở nên khan hiếm, thì đó cũng chính là lúc bình bát không còn lưu lại trong nhân gian.
Y Bát của Phật được truyền trao cho ai?

Một trong những sự kiện quan trọng liên quan đến việc truyền thừa y và bát của đức Phật Thích-ca cho đức Di Lặc trong tương lai đó là việc tôn giả Đại Ca-diếp nhập định lưu thân tại núi Kê Túc. Khi biết cơ duyên hoằng hóa đã mãn, Tôn giả Ca Diếp quyết định vào núi Kê Túc nhập đại định đợi đến khi đức Di-lặc thành đạo sẽ trao lại y bát của đức Thích¬-ca. Trước khi lên núi, Tôn giả vào thành Vương Xá để từ biệt vua A-xà-thế. Lúc ấy nhà vua còn đang nghỉ nên Tôn giả một mình lên Kê Túc. Sau khi thức dậy, vua A-xà-thế bèn tìm gặp tôn giả A-nan và nhờ Tôn giả đưa mình đến đảnh lễ ngài Đại Ca-diếp. Khi cả hai đến núi Kê Túc, theo như lời nguyện của ngài Đại Ca-diếp, núi bỗng mở ra và cả hai cùng được chiêm ngưỡng và đảnh lễ tôn giả Đại Ca-diếp lần cuối. Hai mươi năm sau kỳ kiết tập kinh điển, tôn giả Đại Ca-diếp biết mình sắp nhập diệt nên theo lời phú chúc của đức Phật vào núi này nhập định để sau này trao lại y báu cho đức Di Lặc.

Việc tôn giả Đại Ca-diếp dâng y cho đức Di Lặc được thuật chi tiết trong kinh Phật thuyết Di Lặc đại thành Phật. Theo bản kinh này, khi đức Di Lặc vừa dùng thần lực mở núi Kê Túc, Phạm Vương liền dùng dầu thơm cõi trời xoa trán và thân của tôn giả Đại Ca¬-diếp. Tôn giả bèn ra khỏi Diệt tận định, thưa thỉnh và dâng y Tăng-già-lê của đức Thích-ca lên đức Di Lặc. Lúc ấy hội chúng của đức Di Lặc bèn bạch Ngài rằng vì sao hôm nay trên ngọn núi này có một chúng sanh đầu nhỏ như côn trùng, mặc y Sa-môn, lễ bái Ngài như thế. Đức Di Lặc bèn dạy các đệ tử Ngài rằng đừng nên khởi tâm khinh mạn người này. Đây chính là tôn giả Đại Ca-diếp, bậc đầu đà đệ nhất trong số một ngàn hai trăm năm mươi vị đệ tử thân cận của đức Phật Thích-ca, là vị Sa-môn tu hành rất tinh tấn, luôn thương tưởng những chúng sanh bần cùng, bậc tối thắng trong hàng trời, người… các ông nên một lòng chắp tay kính lễ vị ấy. Khi nghe đức Di-lặc dạy như vậy, cả hội chúng không còn thắc mắc, tất cả đều lễ bái tôn giả Đại Ca-diếp.

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.