Công cuộc truyền y bát tại Trung Hoa
Khi Thiền tông hưng khởi tại Trung Hoa, y, bát được xem là những biểu tượng thiêng liêng của chánh pháp và là vật truyền thừa tối quan trọng trong thiền môn. Truyền thống này bắt nguồn từ giai thoại đức Thế Tôn trao truyền chánh pháp nhãn tạng cho tôn giả Đại Ca-¬diếp trên hội Linh Sơn, xứ Ma Kiệt Đà. Sách Cảnh Đức Truyền Đăng Lục có chép rằng sau khi truyền tâm ấn cho ngài Huệ Khả, tổ Bồ-đề Đạt-¬ma còn truyền pháp y để minh định tông chỉ nhà thiền và xem đó như bảo vật để minh chứng cho sự truyền thừa từ một tổ sư Thiên Trúc cho một môn đồ đắc pháp Trung Hoa. Tổ Đạt-ma còn huyền ký rằng sau khi ngài diệt độ hai trăm năm, lúc người biết đạo thì nhiều mà hành đạo thì ít, nói lý thì nhiều mà tỏ lý thì ít, pháp y không được truyền thừa nữa. Lịch Đại Pháp Bảo Ký cũng thuật lại rằng lúc trao pháp y cho nhị tổ Huệ Khả, tổ Đạt-ma căn dặn rằng ví như khi một vị Chuyển Luân Thánh Vương vừa lên ngôi được bảy món báu, việc truyền ca-sa là để biểu trưng cho sự truyền thừa chánh pháp. Như thế việc truyền thừa y, bát trong Phật giáo, đặc biệt là trong Thiền tông ám chỉ cho sự truyền pháp của một vị thầy hay một thiền sư cho người đệ tử nào xứng đáng và đã đắc pháp với mình. Chúng ta có thể biết rõ hơn điều này qua việc ngài Phật-đà Bạt¬-đà-la truyền y cho ngài Tăng Triệu hay tổ Đạo Tín truyền y cho ngài Pháp Dung.
Truyền thống Thiền tông cũng cho rằng pháp y được truyền từ thời tổ Đạt-ma cho đến thời ngài Huệ Năng chính là tấm y mà đức Phật đã truyền lại cho tôn giả Đại Ca-diếp, người lãnh hội được yếu chỉ của thiền trên pháp hội Linh Sơn. Song theo huyền ký của tổ Đạt-ma nói trên cũng như trong kinh Pháp Bảo Đàn khi được đệ tử Pháp Hải hỏi về việc truyền pháp y, ngài Huệ Năng đáp rằng cứ theo di kệ của tổ Bồ-đề Đạt-ma, sau khi Ngài viên tịch pháp y sẽ không được truyền thừa như trước nữa. Theo ngài Thần Hội, tại Ấn Độ, nơi có những bậc Cao tăng sống đời thanh bạch và nghiêm tịnh pháp y không được xem như là ấn tín. Việc truyền thừa y để ấn chứng chỉ xảy ra ở những nơi có quá nhiều người tham cầu tiếng tăm, lợi dưỡng, hay tranh cãi và sống thô tục, chẳng hạn như Trung Hoa.
Ngoài ý nghĩa biểu trưng cho sự hiện hữu của đức Thế Tôn tại nhân gian, y và bát của đức Phật còn là một thông điệp đầy ý nghĩa đối với hàng đệ tử của Ngài. Trong sinh hoạt của Tăng đoàn việc thọ trì y và bát theo luật nghi là một điều tối quan trọng để hội chúng xuất gia được thanh tịnh và để kế thừa truyền thống chánh pháp của chư Phật trong nhiều đời. Phẩm hạnh của mỗi người xuất gia được hình thành một phần nhờ vào nếp sống thiểu dục, tri túc thông qua việc thọ nhận phẩm vật của người đời để nuôi thân và che thân. Y và bát của đức Phật hay của mỗi người xuất gia vừa là để phân biệt với lối sinh hoạt của người thế tục, nhưng đồng thời cũng nói lên chí nguyện, hoài bão mà người xuất gia đang hướng đến. Con người sở dĩ chịu quá nhiều đau khổ, tai ươn là vì họ quá đam mê ngũ dục. Hình ảnh một bậc vương tử, một người tầm đạo khả kính nhất, một bậc đạo sư của ba cõi sống một cuộc đời thanh đạm với y phục hoại sắc và bình bát đơn sơ sẽ mãi mãi là hình ảnh cao đẹp và thâm thúy nhất đối với những ai đang thao thức về một lẽ sống thuần tịnh và thanh cao, những ai đang hướng về một lý tưởng trong sáng, và những ai đang tiếp bước trên con đường mà các bậc tiền nhân khả kính đã đi qua.
Y Bát được truyền đến ngài Huệ Năng:
Trước Huệ Năng, Thiền còn mang nặng ảnh hưởng Ấn Độ nhưng đến đời Sư, Thiền bắt đầu có những đặc điểm riêng của Trung Quốc. Vì vậy mà có người cho rằng Sư mới thật sự là người Tổ khai sáng dòng Thiền tại đây. Huệ Năng không chính thức truyền y bát cho ai, nên sau đó không còn ai chính thức là truyền nhân. Tuy nhiên Sư có nhiều học trò xuất sắc. Môn đệ chính là Thanh Nguyên Hành Tư và Nam Nhạc Hoài Nhượng là hai vị Thiền sư dẫn đầu hầu như toàn bộ các dòng Thiền về sau. Cả hai dòng này cũng được truyền đến Việt Nam qua các vị như Thảo Đường, Nhất Cú Tri Giáo, Vô Ngôn Thông và Chuyết Công.
Sư là tác giả của tác phẩm chữ Hán duy nhất được gọi là “Kinh”, một danh từ thường chỉ được dùng chỉ những lời nói, bài dạy của chính Phật Thích-ca, đó là Lục Tổ Đại Sư Pháp Bảo Đàn Kinh, một tác phẩm với ý nghĩa rất sâu xa về thiền. Cũng nhờ Pháp Bảo Đàn Kinh mà người ta biết được ít nhiều về Huệ Năng. Sư họ Lô, sinh trong một gia đình nghèo, cha mất sớm, lớn lên giúp mẹ bằng cách bán củi. Một hôm, trong lúc bán củi, nghe người ta tụng kinh Kim cương, Sư bỗng nhiên có ngộ nhập. Nghe người đọc kinh nhắc đến Hoằng Nhẫn, Sư liền đến tìm học. Hoằng Nhẫn nhận ra ngay căn cơ của Sư, nhưng không truyền pháp ngay, bắt tiếp tục chẻ củi, nấu cơm. Truyền thuyết nổi tiếng về việc truyền tâm ấn cho Huệ Năng và việc phân đôi hai phái Thiền Nam-Bắc được kể lại như sau:
Hoằng Nhẫn biết tới lúc mình phải tìm người kế thừa nên ra lệnh cho học trò mỗi người viết kệ trình bày kinh nghiệm giác ngộ. Cuối cùng chỉ có Thần Tú, một đệ tử với tri thức xuất sắc mới dám làm. Thần Tú viết bài kệ, so sánh thân người như cây Bồ-đề và tâm như tấm gương sáng và người tu hành phải lo lau chùi, giữ tấm gương luôn luôn được trong sáng. Sư đang làm việc trong bếp, nghe đọc bài kệ biết người làm chưa minh tâm kiến tánh. Sư cũng nhờ người viết bài kệ của mình như sau: Bồ đề bổn vô thọ – Minh cảnh diệc phi đài – Bổn lai vô nhứt vật – Hà xứ nhá trần ai.
Nghe bài kệ, Hoằng Nhẫn biết căn cơ của Sư vượt hẳn Thần Tú, nhưng sợ di hại nên nửa đêm gọi Sư vào thất và thuyết trọn kinh Kim cương cho Sư. Đến câu “Đừng để tâm vướng víu nơi nào” (ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm), Sư hoát nhiên đại ngộ. Ngũ tổ truyền y bát cho Sư và khuyên đi về phương Nam. Khi tiễn Sư xuống thuyền, Tổ muốn tự chèo đưa Sư sang sông, Sư bèn nói: “khi mê thầy độ, ngộ rồi tự độ” và tự chèo qua sông.
Suốt 15 năm sau, Sư ở ẩn, và trong thời gian này vẫn là cư sĩ. Sau đó, Sư đến chùa Pháp Tính ở Quảng Châu. Đó là nơi sản sinh công án nổi tiếng “chẳng phải gió, chẳng phải phướn”. Sau khi Sư chen vào nói “tâm các ông động” thì Ấn Tông, vị sư trụ trì của chùa hỏi Sư “Nghe nói y pháp Hoàng Mai đã truyền về phương Nam, phải chăng là hành giả?” Lúc đó Sư mới nhận mình là truyền nhân của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Ấn Tông sai người cạo đầu cho Sư, cho Sư gia nhập Tăng-già rồi xin nhận Sư làm thầy.
Sau đó, sư bắt đầu giáo hoá ở chùa Pháp Tính, về sau về Bảo Lâm tự ở Tào Khê và thành lập Nam tông, trong lúc đó Thần Tú và đệ tử thành lập Bắc tông và cũng tự nhận là truyền nhân của Ngũ tổ. Nam tông cho rằng, giác ngộ là một sự nhảy vọt bất ngờ, mang tính trực giác trong lúc Bắc tông chủ trương dùng suy luận, tu tập dần dần theo chỉ dạy của kinh sách mà giác ngộ. Trong cuộc tranh chấp giữa hai phái đốn ngộ (ngộ ngay tức khắc) và tiệm ngộ này, Nam tông đã chứng tỏ sinh lực của mình, sản sinh vô số Đại sư và trở thành truyền phái đích thật của Phật pháp tại Trung Quốc. Phái Thần Tú chỉ vài thế hệ sau là khô kiệt.
Với Huệ Năng, được xem là người “ít học” nhất lại được truyền tâm ấn, Thiền đã qua một bước ngoặt quyết định, trở thành Thiền tông Trung Quốc. Các hiền triết Lão giáo cũng là những người cười nhạo văn tự, họ đã có ảnh hưởng lên cái “bất lập văn tự” của Thiền tông để từ sự dung hợp này, tất cả các tông phái Thiền Trung Quốc ra đời. Với Huệ Năng và các vị Đại sư nối tiếp, Thiền tông Trung Quốc đi vào thời đại hoàng kim trong đời nhà Đường, nhà Tống. Và cho đến ngày nay, Thiền tông vẫn còn là nguồn cảm hứng sâu xa, vẫn là một pháp môn cho nhiều Phật tử.
Ý nghĩa việc truyền y bát trong giới Phật giáo rất cao thượng, thẳm sâu mầu nhiệm giữa tình Thầy Trò “tổ tổ tương truyền, sư sư tương thọ”, Thầy Trò hiểu ý nhau mà giao việc của người trước cho người sau, biết phải làm gì cho đúng ý tưởng của người trước. Hoặc là pháp “truyền đăng tục diệm”, tức là lữa pháp của đèn trước mồi lữa pháp cho đèn sau, đèn sau tiếp lữa pháp của đèn trước, dù có khác nhau về hình thức, nhưng lữa tâm vẫn không khác. Nói thì rất hay như thế, nhưng ngày nay không còn truyền thống nầy nữa, nếu có cũng chỉ là hình thức, không có ấn chứng khả thi như thời Phật, Tổ tương truyền.