Đạo Phật Qua Nhận Thức Mới

PHẬT HỌC VỚI CÁC MÔN HỌC KHÁC

Tất cả các môn học đều có mục-đích là hiểu biết. Hiểu biết để được thỏa mãn, và hơn nữa, hiểu biết để hành-động.

Con người, khi sanh ra, đã mang theo những bất mãn và thắc mắc. Những bất mãn và thắc mắc ấy một khi chưa được thanh toán, thì còn là nguyên do của muôn ngàn đau khổ.

Với một khối óc và một trái tim, con người sinh hoạt khác hẳn loài vô tình. Bao nhiêu lo âu, giận ghét, bao nhiêu thương yêu say đắm đã gây cho con người những cuộc khủng hoảng liên miên về đời sống tình cảm. Thêm vào đó, những câu hỏi về giá trị cuộc sống được đặt ra, cấp bách và khẩn thiết không khác gì vấn đề cơm áo. Nhìn những cảnh tượng đau thương, nhìn những cuộc bể dâu thay đổi của kiếp sống, con người bàng hoàng tự hỏi mình là ai, đâu là nguồn gốc của tất cả các hiện tượng, trước mình là ai và sau mình sẽ có những gì. Vì sao muôn loài tồn tại, tồn tại để mà tương tàn tương sát, tồn tại để chứng kiến bao nhiêu nỗi thảm sầu? Ý nghĩa của cuộc sống là gì? Con người sẽ về đâu sau khi chết? Tất cả những câu hỏi ấy đến trong trí óc chúng ta như những ngọn gió lốc bạo tàn. Con người làm sao có được hạnh-phúc trong trạng-thái thắc-mắc nghi-ngờ đó của tâm tưởng?

Bao nhiêu bất-mãn và thắc-mắc thì bấy nhiêu đau khổ. Người ta chỉ có thể có hạnh-phúc được khi đã làm thỏa mãn được những bất mãn và thắc mắc kia. Và như thế thì chỉ có cách là phải hiểu biết.

Song có người bảo: ” Sự hiểu biết ấy, đối với đại đa số quần-chúng, không cần thiết nào. Quần-chúng ít thắc mắc về những vấn đề siêu hình kia “.

Nhưng ta thử hỏi: Quần-chúng có cần thắc mắc về vấn đề nhân-sinh không? Hành-động theo đường lối nào, làm sao mà hành-động để xây dựng được một đời sống xã-hội hòa-bình, hạnh-phúc? Vấn đề nhân-sinh được giải-quyết như thế nào? Không ai sống trong xã-hội mà lại không cần biết đến vấn đề đó. Bởi vì có những nhu cầu không thể thiếu được đối với con người đang sống trong xã-hội. Dù si-ám đến đâu, tôi cũng có thể nhận được rằng tôi cần cơm áo, nhà cửa, tôi cần đến những mối liên-lạc giữa tôi với mọi người trong xã-hội. Mà muốn có một nhận thức về đường lối nhân sinh, tôi phải có một nhận thức về sự sống, về vũ trụ. Tự-nhiên-giới và nhân-sự-giới có những tương-quan hết sức mật thiết, những liên-lạc hết sức chặt-chẽ, và con người muốn thông hiểu nhân-sự-giới, trước tiên, phải có nhận-thức rõ-ràng về tự-nhiên-giới.

Huống nữa vấn-đề nhân-sinh không phải chỉ là vấn-đề no cơm ấm áo. Con người muốn sinh-hoạt cho ra người; nghĩa là cuộc sống phải có văn-hóa, có hướng đến Chân, Mỹ, Thiện. Và dù ta không có những thắc mắc siêu-hình, ta cũng phải giải-quyết những vấn-đề siêu-hình, bởi vì một nhận-thức về nguyên-lai và cứu-cánh của vũ-trụ bao giờ cũng là nền-tảng cho một nhận-thức về đường lối nhân-sinh.

Tóm lại, con người cần, rất cần phải hiểu biết.

Các môn học của con người là để cung cấp sự hiểu biết đó cho loài người.

Môn học thường tự-hào về mình hơn hết là KHOA-HỌC. Khoa-học thường tự-hào bằng-cứ hoàn-toàn vào thực-nghiệm và tìm hiểu được nhiều hiện-tượng. Làm như không còn có môn học nào khác biết căn-cứ trên thực-nghiệm để tìm hiểu được các hiện-tượng nữa cả.

Khoa-học chỉ có thể giải-thích những hiện-tượng và những sự kiện xẩy ra trong sự tương-quan giữa những hiện-tượng ấy. Đối tượng của khoa-học là những hiện-tượng khách-quan mà ai cũng có thể đo-lường và kiểm soát được ở mọi địa-phương, mọi trường-hợp. Cáibiết của khoa-học là cái biết về những hiện-tượng, cho nên cái nhìn của khoa-học là cái nhìn chi-li; vì thế, khoa-học tránh không trả lời những câu hỏi về ý-nghĩa, giá-trị, và nguyên ủy cuộc đời. Khoa-học không thể vượt ra ngoài những hiện-tượng cụ thể. Thật đúng như lời của nhà triết-học Pierre Jean: “cái thứ khoa-học biết thì biết nhiều mà hiểu thì không hiểu gì hết” (cette science qui sait tout et ne comprend rien). Vì thế, cái khát-khao hiểu biết tuyệt-đối của con người không thể nhờ khoa-học giải-đáp được.

Đứng về phương-diện nhân-sinh, ” khoa-học mà không có lương-tri thì tổ phá hoại tâm hồn “, nền văn-minh vật-chất, con đẻ của khoa-học, đã tiến đến chỗ cùng cực với một sức phá-hoại ghê gớm: cái biết của khoa-học ở đây lại cũng không phải là cái có thể giải quyết được một cách căn-bản vấn-đề nhân-sinh.

TÂM-LÝ-HỌC và XÃ-HỘI-HỌC có thể đi xa hơn. Cái biết của tâm-lý-học và của xã-hội-học có thể vượt khỏi cái biết hiện thời và hiện-xứ của khoa-học, có thể khám-phá ra nguyên-do của nhiều sự kiện tâm-lý, xã-hội. Tuy nhiên, đứng về phương-diện tuyệt-đối, tâm-lý-học và xã-hội-học vẫn không có cao vọng giải quyết được những thắc-mắc siêu-hình, và đứng về phương-diện nhân-sinh, các môn học nầy cũng chưa có thể định được giá-trị và tiêu-chuẩn cho các hiện-tượng tâm-lý, xã-hội.

TRIẾT HỌC có một cái nhìn tổng quát hơn, rộng rãi hơn. Triết-học chủ-trương giải-quyết những vấn-đề siêu-hình, và nương vào những giải-quyết ấy, thiết lập những đường lối nhân-sinh phù hợp. Triết-học muốn tìm đến bản-thể và chân-tướng của vũ-trụ vạn-hữu, chủ trương hoặc nhất-nguyên, hoặc đa nguyên, hoặc vô nguyên… Tuy bước đầu cũng có căn-cứ trên thực-nghiệm đấy, nhưng dần dần lìa xa thực-nghiệm để đi sâu vào những biên-giới siêu-hình xa thẳm. Những lối giải-đáp của triết-học thật táo-bạo và cố nhiên là không thể kiểm-sát được bằng thực-nghiệm. Từ xưa đến nay, biết bao nhiêu triết-gia, biết bao nhiêu lý-thuyết chủ-trương không giống nhau, và ta nào biết được đâu là chân-lý. Cái mà hôm qua người ta gọi là chân-lý, hôm nay đã không còn là chân-lý nữa rồi. Cái mà hôm nay mọi người cho là chân-lý, ngày mai hẳn lại có thể là sai lạc. Lý-trí con người khổ sở vô cùng trong khi đi tìm chân-lý, và đến bây giờ con người lại đâm ra nghi ngờ không biết rằng lý-trí mình có thể có khả năng đạt đến chân-lý hay không? Sự nghi ngờ đó quả đã tố-cáo sự kém hèn của cái tri-thức nhân-loại. Cái biết của triết-học đã bâng-quơ như thế thì làm sao hướng dẫn được nhân-sinh một cách vững-vàng chắc chắn?

Nương vào đâu để có chỗ an tâm lập mạng? Con người chỉ còn biết nương vào tôn-giáo…

TÔN-GIÁO phần nhiều được thành lập trên đức TIN, bác bỏ hẳn phần lý-trí. Ở trong địa hạt nầy, con người phải đặt hết sự Tin-tưởng vào một đấng thần-minh, sống đúng theo những giáo-điều định sẵn để chờ một ngày giải-thoát. Con người ở đây được yên ổn hơn, nhưng thương thay, không dám nghĩ, và làm một điều gì mình cho là đúng mà ngược lại với những giáo-điều cố định. Triết-học thì thuần Hiểu, mà tôn-giáo lại là thuần Tin – Cái biết ở đây không còn có cánh để có thể mong bay xa được nữa.

Đạo Phật, như trong bài trước chúng tôi đã nói, bao gồm cả khoa-học, tâm-lý-học, xã-hội-học, triết-học và tôn-giáo. Không có một vấn đề nào thuộc siêu-hình, một vấn đề nào thuộc nhân-sinh mà đạo Phật không đề cập đến. Tuy đạo Phật không đề cập đến tất cả những chi-tiết của các môn học kia, song ta có thể tìm ở đạo Phật những nguyên-tắc tổng-quát giải-thích được mọi vấn-đề.

Đạo Phật lấy sự sống làm căn-bản và chủ-trương giải-thoát con người khỏi tình-trạng sinh-hoạt đau khổ, nên chi những giải-quyết của Phật-giáo rất là thực-tiễn.

Về các hiện-tượng, đạo Phật không chủ-trương tìm hiểu cho cặn kẽ. Bởi vì sự tìm hiểu đó không có lợi ích gì cho sự tiến bộ trên đường giải-thoát. Đức Phật dạy lý nhân-quả, lý nhân duyên tương-quan tương-thành để chỉ bày con đường diễn biến thành hoại của muôn vật. Người Phật-tử cần thấy nguyên tắc tương duyên ấy mà quán sát, tu tập xây dựng. Một quan-niệm tương-quan tương-duyên chẳng hạn có thể làm cơ sở cho một nguyên tắc tổ-chức xã-hội, một nguyên tắc giáo-dục hợp lý, và là một nguyên do phá tan những cố-chấp mê mờ sẵn có của chúng ta. Trong kinh Bách-dụ , đức Phật Thích-Ca có thuật câu chuyện: Một người bị tên độc, khi thấy người ta bảo rút mũi tên ra, thì ngăn lại, bảo: ” Khoan, để tôi hỏi xem ai bắn mũi tên nầy, người đó tên họ là chi, ở xứ nào, và thuốc độc nầy lấy ở đâu, công hiệu ra sao đã “. Nếu dần dà tìm hiểu cho hết từng ấy thì thuốc độc đã thấm vào làm cho người ấy chết rồi. Cho nên việc quan-hệ là phải nhổ ngay mũi tên và rửa thuốc. Cái biết kia chẳng quan-hệ chi. Đức Phật chỉ dạy những cái biết cần thiết để cho con người thoát khổ thôi. Mà những cái biết Phật dạy là những cái biết lớn lao, không phải là những cái biết lặt-vặt.

Cái biết nào là cái biết lớn lao?

— Cái biết về sự sinh-tử và giải-thoát.

Với một trí-tuệ giác-ngộ, đức Phật đã đạt đến chân-lý tuyệt-đối. Nhưng chân-lý tuyệt-đối ấy phải do mỗi người tự chứng ngộ. Chân lý kia không thể giải bày trên ngôn ngữ văn tự được, vì những thứ nầy có một giá trị thật kém cỏi. Nếu Phật có giải bày thì cũng chỉ giải-bày được bóng dáng của chân-lý và những phương-tiện để đi đến chân-lý mà thôi. Sự chỉ bày ấy có căn-cứ trên sự giác ngộ thấu-đạt, chứ không phải chỉ là những suy luận siêu-hình vẩn-vơ như ở triết-học. Giáo-lý viên-giác và duy-nghiệp của Phật dạy chẳng hạn, có thể thuyết-minh được nguyên ủy của vũ-trụ nhân-loại và vạch được con đường đi cho nhân-loại. Giáo-lý duy-thức trình bày cặn-kẽ những hành-tướng và tác-dụng của tâm-lý con người, chính xác, rành-rẽ và sâu-xa gấp mấy mươi lần tâm-lý-học thực-nghiệm. Và còn nguyên-tắc tổ-chức xã-hội nào hợp lý và làm thỏa-mãn chúng ta hơn là nguyên-tắc “tự-biến cọng-biến” của giáo-lý duy-nghiệp? Con người nương vào giáo-lý Phật dạy để tìm hiểu, để thực-hành, cải tạo bản thân mình và xã-hội mình, để được giải-thoát và giác-ngộ. Nhưng con người không bị bắt-buộc phải tin theo giáo-lý ấy một cách mù quáng, Phật dạy: ” Đừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là do một vị truyền-giáo chỉ dạy. Phải suy nghĩ kỹ lưỡng trước khi tin, và khi tin rồi phải cương-quyết thực-hành để đi đến kết quả ” (kinh Kalama).

Nhờ tìm hiểu, thực-hành, chứng đạt, con người có thể cởi mở được tất cả những nghi nan, thắc mắc. Từ một quan-niệm chính xác – quan-niệm duy-nghiệp – về vũ-trụ và con người, Phật-tử đi đến một quan-niệm hợp lý về sự sống. Người ta tìm thấy ở đạo Phật sự thỏa-mãn về lý-trí, về tình-cảm. Con người ở đây không còn bị thắc mắc nghi nan. Con người ở đây có thể tìm được chỗ an tâm lập mạng.

Cái biết của bậc giác-ngộ là ” cái biết cùng khắp, chân chính và cao tột ” (vô thượng chính biến tri giác). Lời dạy của bậc giác-ngộ gọi là giáo pháp. Phật-tử tìm hiểu, chứng nghiệm chân-lý chỉ bày trong giáo-pháp ấy để có thể đi đến cái biết cao tột chân chính kia mà phá tan mọi thắc-mắc. Lòng tin ở đây được lý-trí kiểm-sát, và cái TRI đi đến cứu-cánh một lần với cái HÀNH.

Đó là nói về phương-diện khát-khao chân-lý. Còn về phương-diện nhân-sinh, giáo-lý bày giải nguyên tắc tổ-chức sinh-hoạt xã-hội, và những phương-pháp đào-luyện nên một nhân-sách siêu việt, chỉ bày một nếp sống hướng-thiện, giải-thoát.

Kho tàng kinh-điển còn đó, chúng ta sẽ dần dần tìm học và sẽ thấy rằng cái biết của Phật quả là một cái biết rộng lớn và cao đẹp vô song.

 

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.