Đạo Phật Qua Nhận Thức Mới

VẤN ĐỀ ĐỨC TIN TRONG ĐẠO PHẬT

Đức Thích-Ca có dạy: ” Tin là căn-bản của sự thành công, và là nguồn gốc của muôn hạnh lành “. Nhưng lòng tin của người Phật-tử không phải là một lòng tin cuồng-nhiệt, sôi nổi, không suy xét.

Một đức tin đưa con người đến chỗ thành công quyết không phải là một thứ mê-tín. Một tín-ngưỡng mù quáng không xây dựng trên lý trí xét đoán là một nguy hại lớn cho đời sống của cá-nhân, của gia-đình, dân-tộc và xã-hội. Cái tín-ngưỡng sai-lầm có thể làm hại tinh-thần quần-chúng. Sự tín-ngưỡng mù quáng không căn-cứ trên lý-trí xét đoán đã đào-luyện và sẽ đào-luyện nên những trí óc lười-biếng, ỷ-lại, nô-lệ cho hoàn-cảnh, nô-lệ cho dục-vọng.

Một đức tin hỗn tạp, thiếu căn-cứ, thường hay đi với sự nương nhờ vào một thế lực phỉnh-phờ. Hai thứ ấy nương nhau, có ảnh-hưởng lẫn nhau rất mạnh. Hai thứ cũng đều tạo nên những bộ óc yếu-đuối, ỷ-lại, thiếu tinh-thần tự lập. Do một tin-tưởng sai-lầm, tinh-thần càng ngày càng bị u-tối, và sau bức màn thành-kiến, con người làm sao trổi dậy, cường-tráng và tự lập cho được?

Đạo Phật truyền sang đất Việt đã gần 2000 năm, có thời rực-rỡ huy-hoàng, nhưng cũng có thời lu-mờ hôn-ám. Rực-rỡ huy-hoàng hay lu mờ hôn-ám chỉ là ở tại đức tin: mê-tín đã gây nên cái hình-thức tào-tạp của đạo Phật thời cận đại. Có nhiều người tự xưng là tín-đồ đạo Phật mà lại có những tín-ngưỡng sai lạc hẳn tinh-thần Phật-giáo. Căn-cứ vào hình-thức ấy, người ta vội mỉm cười, cho đạo Phật là mê-tín, là ỷ-lại thần-quyền, là chỉ lo tư lợi, là chán đời, là nhu nhược yếu đuối.

Số người chịu khó đi sâu vào tinh-thần Phật-giáo có được bao nhiêu đâu! Nhiều kẻ mang danh là tín-đồ mà sự hiểu biết và hành-động trái hẳn giáo-lý Phật dạy, phản lại tinh-thần từ-bi trí-tuệ của Phật-tổ. Nhận-xét bằng một cặp mắt kém nhận-xét, nhiều người trông thấy những màu-mè ấy vội kết-luận rằng đạo Phật chỉ là một đa-thần-giáo như những đa-thần-giáo ngày xưa!

Phật-giáo nước Việt trong mấy thế-kỷ vừa qua đã có một hình-thức tào-tạp. Những hình-thức bói xăm, vàng mã, đồng bóng họp chung lại gọi là “đạo”, và trong trường-hợp nào (ví-dụ như lên đồng lên bóng chẳng hạn) người ta cũng “mô Phật” được! Những vị chân tu cùng đạo Phật chân-chính, vì thế, được ít người biết đến. Hèn gì đạo Phật bị nhận thức sai lầm.

Có bao nhiêu kẻ thường ngày không biết đến Phật, không nghe, không hiểu và không làm được theo một lời Phật dạy, khi lâm nạn mới đến chùa tháp, đốt một nén hương khẩn cầu. Họ xem đạo Phật là một lối chuyên-môn thờ cúng, và Phật là một vị thần thiêng-liêng sẵn-sàng ban phúc diệt họa cho họ mỗi khi họ cầu đến.

*

* *

Một hôm, có người trong phái Kalmala đến tìm Phật và hỏi Ngài: ” Bạch đức Thế-tôn, các thầy Bà-la-môn ngoại-đạo đến thăm chúng tôi, người nào cũng bảo rằng chỉ có lời của họ mới đúng chân-lý mà thôi. Bạch Ngài, chúng tôi thật lấy làm phân-vân và không biết theo bên nào, bỏ bên nào “.

Trả lời câu hỏi ấy, đức Phật không bảo rằng Ngài là chúa tể vạn vật, chỉ có đạo Ngài mới nên theo; ngài không bảo rằng các vị giáo-chủ và các đạo khác đều là hư-ngụy, là sai-lầm. Lời dạy của Ngài rất rộng-rãi. Ngài bảo: ” Ngươi đừng vội tin theo ai cả. Tất cả những gì mà ngươi đã thực-nghiệm sâu-xa, hợp với lý-trí xét đoán của ngươi, có thể đem lại hạnh-phúc cho chính ngươi và cho những kẻ khác, những cái ấy, ngươi hãy nhận đó là chân-lý và hãy cố sống đúng theo chân-lý ấy”.

Đọc đoạn vừa rồi trong kinh Kalama, chúng ta nhận thấy hai điều: một là đạo Phật không bao giờ bắt buộc người ta phải tin theo một cách mù quáng; hai là đức Phật không phải là một vị chúa tể có quyền phép lạ, có thể đem tín-đồ mình đặt ở thiên-đường hay ở địa-ngục tùy theo ý thích của mình.

Nội một sự-kiện “không buộc người phải tin theo một cách mù quáng” đủ chứng tỏ rằng đạo Phật có một tinh-thần thật rộng rãi và có tính cách nhân-loại. Đạo Phật dạy rằng không hiểu Phật mà theo Phật thì đã không có lợi mà còn có hại là khác nữa.

Chính đức Phật Thích-Ca cũng có dạy: ” Tin ta mà không hiểu ta, ấy là bài báng ta vậy “.

Như thế, người nào tin Phật như một vì chúa tể có quyền ban phúc trừ họa tức đã bài báng Phật.

Một lòng tin chân-chính phải đi theo với một lý-trí xét-đoán. Hiểu rồi mới tin, thì cái tin ấy mới là chánh tín. Đối với đạo Phật, tin mà không hiểu thì sẽ lạc đường.

Đạo Phật chủ-trương cá-nhân có quyền thẩm sát tất cả, và tin hay không là tùy ở chính mình. Chúng ta hãy đọc đoạn nầy cũng ở trong kinh Kamala:

” Đừng vội tin-tưởng những cái gì mà người ta thường lặp đi lặp lại luôn. Đừng vội tin-tưởng một điều gì dù điều đó là một tập tục cổ truyền đã trải qua nhiều thời-đại. Đừng vội tin-tưởng một điều gì dù điều đó là điều người ta hay đồn và hay nói đến luôn. Đừng vội tin-tưởng điều gì dù điều đó là do bút tích thánh-nhân xưa để lại. Đừng vội tin-tưởng một điều gì dù điều đó là luật-lệ đặt ra từ lâu và được xem như chính đáng. Đừng vội tin-tưởng một điều gì dù điều đó là do quyền năng của một bậc thầy hoặc do quyền lực của một nhà truyền giáo.

Tất cả những gì hợp với lý-trí xét định, hãy tin”.

Tam-Tạng giáo-điển của Phật-giáo đối với Phật-tử không giống những thánh-kinh đối với tín-đồ các tôn-giáo khác. Phật-tử không bị bắt buộc tin vào kinh điển một cách mù quáng. Kinh điển đối với Phật-giáo không phải là một “tối-hậu-chân-lý”, một bảo vật mà ai cũng phải thờ lạy. Kinh điển không phải là những bùa chú linh thiêng mà hễ đọc lên là được đức Phật cứu độ. Kinh điển chỉ là lời dạy của Phật, của một bậc giác-ngộ. Đức Phật đã từng nói:

” Này các tỳ-kheo! hãy xem ta như kẻ hướng dẫn các ngươi trên đường tu học”.

Địa vị của đức Phật trong Phật-giáo là địa-vị của một người dẫn đường trong đám người lạc hướng, hay nói khác hơn, địa-vị của một lương-y trong đám bệnh nhân đau khổ.

Nếu những người lầm đường không đi theo con đường của người dẫn lối thì không khi nào đến đích được, và đó là lỗi của người không đi, chứ không phải lỗi ở người chỉ đường. Vị lương-y cho thuốc uống, nhưng sợ đắng không uống, bệnh không lành, đó chỉ là lỗi ở các con bệnh, chứ không phải lỗi ở lương-y.

Nếu Phật-tử không hiểu lời dạy của Phật, không thực-hành theo những lời dạy của Ngài, thì đức Phật và tam-tạng giáo điển của Ngài đối với người kia không còn ý-nghĩa gì nữa cả. Bởi thế, đốt hương, kết hoa, tỏ lòng biết ơn Phật cũng chưa phải là việc cần làm nhất của một Phật-tử chân-chính. Học hiểu và thực-hành theo lời Phật dạy mới là Phật-tử chân-chính vậy.

Căn-cứ vào những lời trong kinh Kalama và căn-cứ trên lý nhân-quả xác-thực, chúng ta thấy rằng đức Phật không phải là một vị chúa tể toàn năng có thể ban phúc lợi và sự giải-thoát cho con người, nếu con người có cầu nguyện Ngài. Lạy Phật, dâng hương lễ Phật, mới là việc làm của kẻ biết ơn. Muốn giải-thoát, muốn có an-lạc, con người phải biết xem Phật như một ngôi sao dẫn đường, một bậc Thầy sáng-suốt.

Hãy nhìn đức Phật ở địa-vị chính của Ngài, và đừng bao giờ đặt Ngài ở địa-vị một thần linh, một chúa tể. Người Phật-tử nếu có tin-tưởng, thì chỉ tin-tưởng ở sự dẫn đạo sáng-suốt của bậc giác-ngộ, tin-tưởng ở khả-năng giác-ngộ (Phật tính) sẵn có ở mọi loài, chứ không phải tin nơi quyền phép có thể ban phúc trừ họa.

Hiểu như thế, ta mới thấy rằng những tâm niệm đen tối, mê-tín, ỷ-lại vào quyền-năng vu-vơ của thần thánh không phải là một lòng tin mà đạo Phật đòi hỏi. Người học Phật phải thận-trọng, luôn luôn giữ thái-độ khách-quan trong khi tìm hiểu kinh điển, và như thế là có tinh-thần khoa-học. Trí óc kẻ học Phật phải là một cơ-quan gạn lọc vàng sỏi, phân-biệt rõ-ràng, đừng để bị nô-lệ cho những kiến văn, sách vở, và những thành-kiến dựa vào tình-cảm.

(Theo “Là Phật-tử” của thầy Nhất-Hạnh)

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.