Đạo Phật Qua Nhận Thức Mới

VẤN-ĐỀ KHỔ VUI TRONG ĐẠO PHẬT

Trong bài thuyết-pháp đầu tiên tại vườn Lộc-Uyển, đức Phật Thích-Ca giảng giải giáo-lý Tứ-Đế và có đề-cập đến vấn-đề khổ cùng phương-pháp diệt khổ .

Danh-từ “Dukkham ariyasaccam” thường được các nhà học-giả dịch là ” Khổ-đế “, là ” Chân-lý về sự khổ ” thành thử mọi người cứ an-trí rằng đạo Phật chủ-trương cuộc đời chỉ toàn là khổ đau.

Lối phiên-dịch ấy không được chính-xác lắm và đã làm cho nhiều người hiểu lầm. Bởi vì chỉ nhận chữ “dukkha” với cái nghĩa hẹp của nó như thế, nên lắm kẻ cho đạo Phật là bi-quan yếm-thế.

Thực ra, đạo Phật không phải bi-quan, cũng như không phải lạc-quan. Đạo Phật nhìn cuộc đời một cách khách-quan, thực-tại. Đạo Phật không ru người trong một giấc mơ thiên-đường ảo-tưởng, cũng không làm cho con người kinh-hoảng và khổ đau vì những mối sợ-hãi không đâu. Đạo Phật, với một thái-độ thật khách-quan, chỉ rõ chân-tướng của vạn-vật, của cuộc đời, và dạy vẽ con đường đi đến thanh-tịnh, an-lạc, giải-thoát.

Đành rằng chữ dukkha (chữ Ba-lị) có nghĩa là khổ đau, cơ-cực, trái lại với chữ sukha có nghĩa là hạnh-phúc, thỏa-mãn. Nhưng chữ DUKKHA trong “bài thuyết-pháp đầu tiên” có một nghĩa rộng hơn nghĩa ấy nhiều. Về điểm này, đại-đức W. Rahula, vốn là một văn-khoa tiến-sĩ, đã viết: ” Chữ DUKKHA trong tứ-diệu-đế còn có những nghĩa: không thường-còn, không hoàn-toàn, không có bản-ngã, hư ngụy và đối-kháng nhau. Vậy ta rất khó mà tìm một chữ nào để dịch được chữ DUKKHA cho hết nghĩa. Và thà rằng đừng dịch còn hơn là dịch nó bằng tiếng khổ có thể làm người ta hiểu lầm “.

(La pensée bouddhique, Avril 1956, p.5)

Người ta hiểu lầm như thế nào?

— Người ta hiểu lầm rằng đạo Phật phủ-nhận tất cả những gì mà người đời gọi là lạc-thú, và chủ-trương rằng tất cả đều là khổ đau. Hãy nghe những kẻ nương vào câu ” đời là biển khổ ” để mà than thở:

” Biển khổ mênh-mông sóng ngập trời,

Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi,

Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió,

Xem lại, cùng trong biển thảm thôi “.

Những kẻ từng gặp đau khổ nhiều thì viết như vậy đã đành. Thậm-chí có một số người muốn giảng giải giáo-lý đạo Phật mà cũng vụng dại, có ý gò bó, uốn nắn để cho rằng “tất cả đều là khổ”. Họ bảo: ” Uống nước dừa ngọt là vui ư? Không, bởi vì ta phải leo lên cây dừa mệt nhọc. Và như thế là khổ “. Lối lập luận ấy không vững tý nào. Ai cấm ta lập luận ngược lại: ” Leo lên cây dừa là mệt nhọc ư? Không, bởi vì leo lên như thế chỉ để được uống nước dừa mát và ngọt “.

Sự gò ép của những kẻ kia chắc hẳn chỉ là muốn cố chứng-minh “đời là bể khổ”.

Trong pháp-tướng duy-thức-học, đạo Phật chủ-trương có ba loại “thọ” (sensation) sau đây:

1./ Khổ-thọ (những cảm-giác đau khổ)

2./ Lạc-thọ (những cảm-giác khoái-lạc)

3./ Xả-thọ (những cảm-giác không khổ không lạc).

Vậy thì có lý-do gì để ta bảo rằng tất cả những cảm giác của ta đều chỉ cho ta “khổ thọ”? Có phải là một sự gò ép hay không?

Đạo Phật không phủ-nhận những cái vui (lạc-thọ) của cuộc đời, và trái lại, còn công-nhận nhiều hình-thức của cái vui vật-chất hay tinh-thần, quy-định cho giới tại-gia và cho cả giới xuất-gia nữa. Nhưng những cái vui ấy, cũng như những cái kho å (khổ thọ) đều nằm gọn trong dukkhacả. Dù cho con người có thể đạt đến những trạng-thái thiền-định cao-siêu khoái-lạc ở tận “Không vô-biên xứ thiên” hay “Thức vô-biên xứ thiên” đi nữa, thì những cái lạc-thọ siêu-thoát ấy cũng vẫn còn nằm ở trong dukkhanhư thường, bởi vì con người chưa thoát được tam giới vô-thường và hư-giả.

Vậy bản-ý của đức Phật khi dạy giáo-lý Tứ-Diệu-Đế không phải là mong cho con người trốn tránh khổ-thọ để đi tìm lạc-thọ. Khổ-thọ và lạc-thọ đều nằm trong dukkha . Giải-thoát là giải-thoát khỏi cái dukkha ấy, chứ không phải trốn khổ tìm vui một cách quá tầm thường.

Dukkha cũng có thể gọi là khổ, nếu ta hiểu chữ “khổ” không phải là khổ-thọ. Và giải-thoát cũng có thể là vui nếu ta hiểu chữ vui không phải là lạc-thọ.

Ta lấy một câu chuyện làm thí-dụ cho dễ hiểu: Hai con gà đang cãi nhau về vui và khổ ở trong lồng. Chúng đàm-luận về cái ngon, dở của những lúa ngô mà người ta đem tới cho chúng ăn, và cho rằng ăn ngô là vui, ăn thóc là khổ v.v… nhưng chúng không biết rằng một lát nữa chúng sẽ bị đem đi làm thịt.

Cái vui và cái khổ mà chúng đang bàn ấy chỉ là thứ ” vui khổ trong lồng “, một thứ vui khổ giả ảo, không đáng gọi là vui khổ. Vì sao? Chúng nó sắp bị làm thịt; gọi là ” vui, khổ ” những cái mỏng manh chốc lát ở trong lồng thì có nghĩa lý gì? Vậy cái khổ mà chúng phải tránh, không phải chỉ là cái khổ nhỏ nhặt kia, mà là một cái khổ to lớn: cái khổ bị nhốt trong lồng và sắp bị đem đi làm thịt. Cái khổ này cũng như dukkha vậy, nghĩa là bao gồm những khổ-thọ và lạc-thọ giả-ảo, nhất thời, xây dựng trên vô-thường, vô-ngã. Cái vui chân thật của hai con gà phải tìm đến, không thể chỉ là cái vui nhỏ nhặt trong lồng, mà là một cái vui to lớn: cái vui được sổ lồng và khỏi bị đem làm thịt. Cái vui này cũng như cái vui giải-thoát vậy.

Vấn-đề khổ vui của con người cũng thế. Những khổ-thọ và lạc-thọ đều xây dựng trên sự vật vô-thường vô-ngã, cho nên đều gọi là dukkha . Đạo Phật chủ-trương phải giải-thoát dukkha . Giải-thoát dukkha tức là tìm đến cái vui hoàn-toàn, cái vui không bao giờ sợ tan-biến vì vô-thường, cái vui khác hẳn những lạc-tho ï mong manh.

Đã có một quan-niệm như thế về dukkha , bây giờ ta mới tạm dùng chữ khổ để thay cho chữ dukkha , và xét về chữkho å, chữ kho å gồm có những nghĩa vô-thường vô-ngã, hư ngụy và hỗ-tương đối-kháng, chữ kho å bao gồm cảkhổ-tho ï và lạc-thọ .

KHỔ (Dukkha) có ba hình-trạng sau đây:

1./ Khổ-khổ (dukkha –dukkha),

2./ Hoại-khổ (viparinama – dukkha),

3./ Hành-khổ (sankhara – dukkha).

Tất cả những khổ-thọ của kiếp sống như sinh, già, bệnh, chết, ghét nhau mà bị gần nhau, yêu nhau mà bị xa nhau, ưa muốn mà không được toại-nguyện…, tóm lại, tất cả những đau khổ về thể xác và tâm-linh đều được liệt vào loại khổ-khổ (Dukkha = khổ-thọ).

Những cảm-giác lạc-thọ của đời sống không thể nào còn mãi được, vì thế đều rất vô-thường. Trước sau, chúng cũng tan mất. Khi chúng tan mất thì phát-sinh một khổ-thọ. Vậy sự chuyển-biến diệt-hoạt này, nguyên do của khổ-khổ, cũng nằm trong DUKKHA và được liệt vào hạng hoại-khổ (Dukkha = biến-hoại).

Hình-trạng thứ ba là hành-khổ, quan-hệ hơn nhiều. Ở đây, trước tiên ta phải tìm hiểu thế nào là một “CHÚNG-SINH”, một “CÁ-NHÂN”, hay một “CÁI TA”. Theo đạo Phật, cái mà con người gọi là “CÁI TA” (le moi) ấy, vốn là sự tổng-hợp của năm uẩn (ngũ-uẩn: les cinq khandhas). Phật dạy:

“Tóm lại, ngũ-uẩn là khổ”

(Sankhittena pancupa danakkhandha dukkha).

Cần phải hiểu rằng : Ngũ-uẩn và khổ (Dukkha) không phải là hai vật khác nhau. Chính ngũ-uẩn là dukkha vậy. Uẩn có nghĩa là những yếu-tố của sinh-tử, ngăn che chân-lý.

Uẩn thứ nhất là vật-chất, gọi là sắc-uẩn (Rupak – khandha). Trong sắc-uẩn, có bốn yếu-tố gọi là tứ-đại-chủng và những chuyển-hóa-vật do bốn yếu-tố ấy cấu thành. Bốn yếu-tố ấy là :

bullet Yếu-tố cứng (éléments de solidité)

bullet Yếu-tố lưu-động (éléments de fluidité)

bullet Yếu-tố năng-lực (énergie) và

bullet Yếu-tố chuyển-động (mobilité).

Trong Đại-tạng Trung-Hoa, người ta thường gọi tạm là địa, thủy, hỏa, phong.

Trong những chuyển-hóa-vật (dérivés) của tứ-đại-chủng, ta thấy có : ngũ căn (năm cảm quan), ngũ trần (đối-tượng của năm cảm-quan ấy). Tóm lại, tất cả vật-chất đều nằm trong sắc-uẩn.

Uẩn thứ hai là cảm-giác, gọi là thọ-uẩn (vedanak – khandha). Thọ-uẩn gồm những cảm-giác vui (khoái-lạc), khổ (đau khổ) và không vui không khổ (xả-thọ), phát-sinh do sự tiếp-xúc giữa cảm quan và ngoại-cảnh.

Uẩn thứ ba là tri-giác, gọi là tưởng-uẩn (sannak – khandha). Tưởng-uẩn là những tri-giác của con người khi giác-quan và ý-thức tiếp-xúc ngoại-cảnh.

Uẩn thứ tư là sự suy-tư tác-động của tâm-lý, gọi là hành-uẩn(sankharak – khandha). Đó là những hoạt-động tâm-lý của con người, có thể là thiện, là ác, và có thể tạo nên nghiệp nhân nghiệp quả. Ví dụ như sự giận-dữ, sự tham-muốn, sự kiêu-căng, sự tin-tưởng, sự quyết-định… Có tất cả 51 “Hành” như vậy, và duy-thức-học gọi là “Tâm sở” (propriétés mentales).

Uẩn thứ năm là tác-dụng nhận biết, tri-thức, gọi là thức-uẩn(vinnanak – khandha). Thức-uẩn là tác-dụng phân-biệt, hiểu-biết, chấp-ngã, duy-trì ảnh-tượng, kinh-nghiệm, và duy-trì sinh-mạng.

Giải-nghĩa về ngũ-uẩn như thế là giải-nghĩa một cách rất sơ-lược. Vậy thì cái “TA” được cấu-tạo nên do năm “uẩn” ấy. Năm uẩn đều vô-thường, chuyển-biến, sinh-diệt, biến-dị trong từng giây phút. Vạn-vật nối tiếp nhau để sinh-diệt, không có thực-thể (substantialité). Vậy không có gì đáng gọi là “TA” trường tại và bất biến cả.

Ai cũng phải công-nhận rằng trong năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, và thức, không có uẩn nào gọi được là “TA” cả. Nhưng khi năm uẩn ấy, gồm có hai phần vật-chất (sắc pháp) và tinh-thần (tâm pháp) – tương-quan, tương-duyên, tác-động và hòa-hợp lẫn nhau thành như một cá-thể sinh-lý tâm-lý, ta liền có ý-tưởng về một cái “TA” trường-tồn và bất-biến. Vậy ý-tưởng về một cái Ta trường-tồn bất-biến ấy chẳng qua chỉ là một sự mê-lầm cố chấp mà Duy-thức-học gọi là “Ngã-si” và “Ngã-kiến”.

Năm uẩn kia chính là bản-thân của DUKKHA, của khổ, và ở đây, ngũ uẩn được gọi là hành-khổ (Dukkha = ngũ-uẩn vô-ngã).

Lời giải-thích về khổ-đế này chẳng khác gì lối biện-giải về giáo-lý vô-thường vô-ngã. Lý vô-thường vô-ngã là một lý rất thực , đúng với những xét nghiệm của mọi người. Không phải vì thấy vạn vật là vô-thường vô-ngã mà tất cả những người Phật-tử đều sinh ra buồn rầu chán nản. Trái lại. Một Phật-tử có được nhận-thức và chứng-nghiệm được lý vô-thường vô-ngã, là một người sung-sướng nhất đời. Người ấy sẽ nhìn cuộc đời với một cặp mắt bình-tĩnh, an-lạc. Sự thành hoại, sinh diệt của vạn vật không lay chuyển được tâm-hồn người, không làm cho người phải đau khổ, lo lắng, bồn-chồn, băn-khoăn, thắc-mắc. Đức Phật và các vị đệ-tử chứng-ngộ thường có một nét mặt trầm tĩnh, tươi vui, an-lạc. Nụ cười bất-diệt của các pho-tượng ngày xưa đã nói lên được những cái vui an-nhiên giải-thoát ấy.

Trên phương-diện nhân-sinh, đạo Phật không dạy người chỉ rời bỏ khổ-thọ mà đi tìm lạc-thọ, nhất là thứ lạc-thọ do dục-vọng gây nên. Cũng không phải đạo Phật chủ-trương rằng lạc-thọ cũng chỉ là khổ-thọ. Đạo Phật chỉ dạy con người diệt trừ những nguyên-nhân gây nên khổ-thọ. Những khoái-lạc dục-vọng cũng là nguyên-nhân gây nên khổ-thọ.

Diệt dục-vọng, thêm từ-bi để làm vơi bớt đau khổ của kiếp sống. Nhưng mục-đích cao cả của đạo Phật phải là được giải-thoát, nghĩa là chứng-nghiệm được lý vô-thường vô-ngã, thoát ra ngoài những ràng buộc và lung lạc của sự vật đang thành-hoại biến-dị và nhìn những thành-hoại ấy với một tâm-trạng an-lạc, hồn-nhiên.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.