Phương Trời Cao Rộng – Chương 13 – 15

Thành phố Đà Nẵng cũng bị chiếm, chúng tôi không còn lý do gì để nấn ná tại chùa Tỉnh hội nữa, bèn kéo nhau trở về Phật học viện Quảng Nam. Lúc ấy, các xe đò đều bị trưng dụng cho bộ đội, cán bộ cộng sản để họ về quê hay đi công tác chi đó, thường dân không sao có xe mà đi được. Chúng tôi cũng đón xe mãi không có, nên rủ nhau đi bộ từ Đà Nẵng vào Hội An. Hơn ba mươi cây số. Nhóm Nha Trang chia thành hai, ba tốp từ đây, vì các chú lớn không thích đi với bọn chậm chạp và thích giữ kỷ luật như chúng tôi. Tôi, Sáng, Cửu, Sướng, Hòa và Hưng cùng đi với nhau. Cứ đi mấy cây số, thấy có chùa dọc đường thì vào nghỉ, xin nước uống rồi lại đi tiếp. Trên đường đi, nhiều xác chết nằm lăn lóc bên vệ đường, ruồi nhặng bu đầy. Chúng tôi nhắm mắt, niệm Phật mà bước. Đi từ sáng đến chiều tối thì cũng về được tới viện.

Đâu chừng tuần sau thì Phú Yên, Nha Trang cũng bị cộng sản chiếm nốt. Vậy là các chú Nha Trang lại rủ nhau lên đường, đi bộ từ Hội An vào Nha Trang. Đoạn đường dài khoảng từ bốn đến năm trăm cây số thì phải. Các chú gom tiền mua thức ăn đầy đủ lắm. Tất cả mười hai chú, hai chú đã lên tàu lớn trước khi cộng sản vào Đà Nẵng, còn lại mười chú. Nhưng tôi ở lại không về nên Sáng cũng ở lại theo. Vậy đoàn lữ hành về Nha Trang chỉ còn tám chú, chia làm hai nhóm, theo sự hướng dẫn của dân địa phương, đi đường tắt ra quốc lộ số 1 rồi nhắm hướng nam mà đi thẳng. Tôi và Sáng chỉ viết thư về thăm thầy và gia đình.

Nửa tháng sau, tôi nhận được thư của thầy tôi, của thầy Thông Chánh và cả thư của gia đình tôi gởi ra, cho biết các chú đi bộ vào Nha Trang đã đến nơi bình an. Các chú vừa đi bộ vừa xin quá giang xe, phải hơn tuần lễ mới vượt hết đoạn đường dài trên bốn trăm cây số. Còn thầy Phước Châu cũng đã về tới Nha Trang sau khi tấp vào Sài Gòn. Hai chú Dương và Lãm lên tàu lớn vào được Sài Gòn, rồi đi ngược ra Nha Trang để rồi lại chịu thêm một màn hỗn loạn tại thành phố này.

Bây giờ chỉ còn Sài Gòn và vài tỉnh phụ cận thủ đô là chưa bị chiếm. Nhưng tuần sau, trên đài phát thanh Sài Gòn, chúng tôi nghe bài nói chuyện cuối cùng của Tổng Thống Thiệu trước khi rời bỏ quê hương. Sau đó, lại nghe lời hứa hẹn đem tấm thân tàn quyết chiến đấu cùng anh em quân dân đến giọt máu cuối cùng của tân Tổng thống Trần Văn Hương. Rồi sau đó nữa, lại nghe lời kêu gọi buông súng đầu hàng vô điều kiện của tân Tổng thống khác, Dương Văn Minh. Những sự kiện dồn dập kéo đến có vẻ bất thường và bất ngờ, nhưng thực ra, người ta cũng đoán trước được phần nào là nó phải như thế, và rồi nó sẽ dẫn đến kết quả ra sao. Không có quân địch với sức tiến công thần tốc vũ bão đánh đâu thắng đó khiến cho hàng ngũ quốc gia bại trận… Chỉ có sự hoảng loạn, rút chạy, đầu hàng trước của một chính phủ ươn hèn, khiến cho đất nước rơi tọt vào tay người cộng sản một cách dễ dàng. Một số đơn vị quân đội Cộng hòa bị quân cộng sản bao vây, đã anh dũng chiến đấu đến người cuối cùng. Trong thế cùng, dĩ nhiên họ chết không phải để bảo vệ chính quyền quốc gia; cũng không hy vọng là chết để bảo vệ được đồng bào miền Nam. Họ chỉ chết cho danh dự và trách nhiệm chưa tròn của họ mà thôi. Cái chết của họ rửa được phần nào cái nhục của một quân đội tháo chạy và đầu hàng từ sự quyết định ban đầu vô trách nhiệm của các nhà lãnh đạo quốc gia.

Đài phát thanh Sài Gòn đổi giọng, không còn là tiếng nói của người quốc gia, mà là tiếng nói của một chính phủ lâm thời do người cộng sản sắp đặt, điều động. Sài Gòn đã mất. Cuộc chiến Nam-Bắc vì mâu thuẫn ý thức hệ, tạm thời coi như đã chấm dứt. Nhưng có người nói, có lẽ từ đây, cuộc chiến của toàn dân hai miền Nam Bắc đối với chủ nghĩa cộng sản mới bắt đầu.

Thượng tọa giám viện nói sẽ thông báo cho học tăng chúng tôi biết ngày tựu trường khi tình thế ổn định. Vậy mà khi người cộng sản chiếm hết miền Nam, lập chính phủ mới, Thượng tọa đã không hề nghĩ đến chuyện tái khai giảng Phật học viện. Các Phật học viện khác cũng như tất cả các trường trung tiểu học Bồ Đề trực thuộc hệ thống giáo dục của giáo hội trên toàn quốc cũng vậy: cộng sản vào thì phải ngưng hoạt động hết. Cơ sở trường Bồ Đề khắp nơi đều bị biến trở thành trường của nhà nước. Nhìn thực tế trước mắt đó thì biết là tình thế có ổn định hay chưa.

Các giáo sư ở trường Bồ Đề theo chỉ thị của các cán bộ giáo dục thuộc chính quyền mới, dẫn học sinh đi mít-tinh cùng các trường khác, hoan hô quân đội giải phóng và chính phủ lâm thời. Thầy Viêm chủ nhiệm lớp tôi, vì là sĩ quan quân đội Cộng hòa nên khỏi phải đi mít-tinh hoan hô ai, nhưng lại đi học tập cải tạo. Cũng thế, thư của mẹ tôi từ Nha Trang cho biết ba tôi cũng đi học tập cải tạo như vậy. Tôi không hiểu nổi mấy chữ “học tập cải tạo” đó nhưng cũng đoán được phần nào nhờ hai chữ “học tập”. Chắc là ba tôi, thầy Viêm, và nhiều người khác làm việc cho chế độ cũ, đã được đi tu nghiệp thêm để có thể phục vụ đất nước qua sự hợp tác làm việc cho nhà nước mới. Thôi vậy cũng tạm yên tâm, học tập chứ có phải đi tù đầy hay đi xử bắn gì đâu mà lo! Riêng phần tôi cũng như nhiều bạn bè học tăng khác, tự dưng không còn nghĩ đến chuyện cắp sách đi học văn hóa ở ngoài nữa. Điều thật lạ! Chẳng ai bảo ai, chẳng ai ngăn cản ai, mà cũng chẳng ai khích lệ ai, cùng chấp nhận chấm dứt việc đến trường, bất kể con đường học vấn dở dang của mình. Thầy tôi, thầy Thông Chánh, gia đình tôi, ban giám đốc Phật học viện Quảng Nam, cũng chẳng ai màng đến chuyện tôi có đến trường hay không. Dường như cộng sản nắm chính quyền rồi thì chuyện đi học không còn cần thiết nữa, hoặc chỉ cần thiết ngang mức tiểu học thôi, nên ai đã ở bậc trung học rồi thì khỏi phải bận tâm tới trường nữa. Hầu như cả nước phải lăn xả vào công việc lao động chân tay và xưng tụng cái vinh quang của lao động bằng những khẩu hiệu to lớn giăng đầy những nơi công cộng.

Ở Phật học viện Quảng Nam, ban giám đốc chỉ còn Thượng tọa giám viện, thầy giám sự và thầy Như Chấn (từ Sài Gòn mới về); số lượng học tăng còn lại chừng tám người, kể cả tôi và Sáng. Chú Tửu cũng không về lại Huế mà xin ở lại đây, bái Thượng tọa giám viện làm thầy y-chỉ. Ngoài ra, còn có hai chú tiểu nhỏ mới tu được vài tháng trước khi cộng sản vào. Sáng và hai chú tiểu nhỏ đó được cắt làm những việc nhẹ trong chùa (bây giờ không gọi là viện nữa, vì viện đã giải tán). Còn lại bao nhiêu người trong chùa đều kéo nhau đi làm ruộng, làm vườn mỗi ngày. Chúng tôi làm việc từ sáng đến tối. Công việc ruộng vườn đòi hỏi nhiều thì giờ. Tôi chẳng còn rảnh để đọc sách hay cầm tới cây bút để nguệch ngoạc bậy bạ chút thơ văn gì nữa. Nhưng có thể nói, giai đoạn làm việc cực nhọc đêm ngày ấy là giai đoạn nỗ lực nhất từ trước đến nay của tôi trong việc tu tập. Từng nhát cuốc đưa xuống, từng bước chân gánh nước, từng phút từng giây, từng cử động nhỏ, từng ý niệm khởi lên, tôi đều quán sát tường tận với một tâm tư tỉnh thức. Chưa bao giờ tôi thấy tâm mình tĩnh lặng, trong vắt như vậy. Và cái tâm trong vắt như pha lê ấy ảnh hiện vẻ cao rộng thênh thang của một vùng trời biển biêng biếc. Không phải biển trời Nha Trang. Không phải biển trời Đại Lãnh. Không phải biển trời Lăng Cô. Không phải biển trời Non Nước… Nó, phương trời cao rộng ấy, ở ngay trong chính tôi một cách lặng lẽ, hiển nhiên như chưa từng sinh diệt, còn mất.

Hai tháng sau, Sáng bỏ về Nha Trang. Vậy, nhóm Nha Trang còn lại duy nhất mình tôi. Hai tháng sau nữa, chú Phương từ Nha Trang viết thư ra nhờ tôi xin phép Thượng tọa giám viện cho chú ấy trở lại viện vừa lao động, vừa tu tập như tôi vậy. Tôi thưa với Thượng tọa, Thượng tọa đồng ý ngay, nhưng dặn tôi cảnh cáo trước với chú Phương là nơi đây làm việc cực nhọc quanh năm suốt tháng, ăn uống chẳng hơn gì ngày xưa. Nhận được hồi âm của tôi, chú Phương khăn gói từ Nha Trang trở lại Hội An, tham gia vào đội quân “nhất nhựt bất tác, nhất nhựt bất thực” (ngày nào không làm việc, ngày đó không ăn – chủ trương của thiền sư Bách Trượng ở Trung Hoa).

Theo lời chú Phương kể, tôi biết viện Hải Đức gần hai trăm học tăng nay chỉ còn khoảng trên hai chục vị. Các chú Dũng, Kính, Thông, Thỏa, Xuân và tất cả những chú tiểu trước đây ở Hải Đức, đều đã hoàn tục. Chưa hết, viện Linh Sơn trăm chú tiểu nay chỉ còn một phần ba. Và mười hai chú Nha Trang đi Hội An học trước đây, cũng chỉ còn bốn người: chú Hòa, chú Quỳnh, chú Phương và tôi. Tám chú kia đều đã hoàn tục. Chú Thiệt làm cán bộ phường khóm gì đó tại Phú Yên. Chú Sướng lấy vợ, làm nông. Chú Tánh làm cán bộ ban y tế xã. Chú Khôi và chú Cửu đi buôn. Thành “mười ổ” lang thang đâu không biết. Hưng và Dương thuộc gia đình liệt sĩ, hoàn tục được nhà nước nuôi ăn học. Và chú Sáng, ông PHật con học giỏi, hạnh kiểm tốt, thường lim dim niệm Phật trước đám đông, hoặc khi có người chọc ghẹo, lại đi làm một anh công an huyện.

Tôi nghe tin chú Phương kể lại mà bàng hoàng. Thật là điều không thể tưởng. Tôi buồn bã bước đi lang thang một mình trong nghĩa địa. Ở giữa nghĩa địa có con đường trải sỏi rộng năm thước, dài gần cây số, dẫn đến khu dân cư gần trường học Trần Quý Cáp. Trước đây, khi Phật học viện còn sinh hoạt, học tăng chúng tôi thường dạo chơi trên con đường này trong giờ phóng tham. Giờ này một mình rảo bước trên con đường ấy, tôi ngậm ngùi nhớ đến những khuôn mặt thơ ngây trong sáng của từng chú tiểu, từng người bạn. Tôi nhớ cả hành vi nghịch ngợm, phá phách của các chú. Tôi nhớ thành tích mười ổ của chú Thành nơi quán bánh mì bà Viết và “tình sử” chú Sâm nơi quán bánh mỳ bà Đạo. Nhớ chúng A Nan lăng xăng bắt rắn cạp nong. Nhớ chú Đồng chui xuống giường để nhường chỗ cho tôi trong giờ niệm Phật. Nhớ chú Quân là chú tiểu duy nhất chịu đứng ra làm “cảnh sát giao thông”, thổi tu-huýt đưa học tăng qua đường mỗi ngày đi học. Nhớ chúng Ca Diếp với nồi chè lén lút nửa đêm để lấp những cái bụng đói. Nhớ các chú Khôi, Hòa, Sâm, Hưng quấn mền lên chánh điện tụng kinh vào thời công phu khuya vì trời quá lạnh. Nhớ chú Cửu treo võng tuốt trên ngọn cây ô-ma để ngủ trưa cho mát và khỏi bị ai quấy rầy. Nhớ chú Sáng bị dính vạt áo dài vào dây sên, lom khom như con khỉ kẹt đuôi… Rồi từ hình ảnh chú Sáng, tôi lại nhớ về Hải Đức Nha Trang với chú Dũng ròm có cánh tay và bàn tay dài như vượn, ngồi đâu ngủ gục đó. Nhớ chú Sung vừa chạy vừa khóc trên đường về nhà. Nhớ chú Minh vào chùa một ngày là nhớ nhà đòi về. Nhớ chú Kính có cái chỏm bờm xờm như ổ quạ, nói tiếng Huế trọ trẹ mà nhanh như gió.

Tất cả những hình ảnh, những con người trên, bây giờ đã nhạt nhòa đi rồi. Họ đã bị cơn bão lửa thiêu sạch. Phải, chỉ có một cơn bão lửa cực kỳ kinh khiếp mới đủ khả năng thiêu rụi và làm thay đổi bao nhiêu tâm hồn dễ thương của cuộc sống. Chưa đầy một năm rời viện, các chú đã trở thành người lớn để chọn lối đi cho mình. Tôi không biết cơn bão ấy sẽ ảnh hưởng gì đến cuộc đời tôi ngày mai. Nhưng tôi muốn nói với các chú ấy rằng: người lớn thường chọn lầm lý tưởng; còn tuổi thơ, giống như những cánh chim non, không bao giờ chọn lầm vòm trời mênh mang xanh biếc của mình cả.

Vòm trời ấy, luôn hiện hữu trong từng giây phút quay đầu nhìn lại. Khi người ta đã chọn nó, người ta không thể nào quên nó được, và khi người ta đã nhìn thấy nó, không bao giờ người ta có thể đánh mất nó được nữa.

Vĩnh Hảo – Nhà Xuất Bản Chiêu Hà

http://thuvienhoasen.org

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.