Giảng Giải 38 Pháp Hạnh Phúc – Chương 3 & 4

KỆ NGÔN III – HẠNH PHÚC VII

Bāhusaccañca
Học nhiều hiểu rộng

Có hai loại học nhiều hiều rộng

– Học nhiều hiểu rộng của người tại gia, tức là kiến thức theo đời.

– Học nhiều hiểu rộng của người xuất gia tức là kiến thức theo đạo.

Người đời vì phải sinh sống, cần phải nghe và học nhiều để tìm việc làm nuôi mình và gia đình.

Người tại gia cư sĩ là người còn lăn lộn tong đời, nên ai ai cũng mong cầu an vui hạnh phúc, bằng cách tạo lập tài sản và ngăn đón những điều khổ não hay là tai nạn. Vì vậy, người ta cần phải biết nhiều hiểu rộng, phải có kiến thức thích nghi với hoàn cảnh xã hội. Kiến thức là nấc thang giúp người ta leo lên khỏi bậc đói nghèo, tiến tới chỗ ấm no, kiến thức còn là chìa khóa để mở cửa kho báu vật có tính cách vật chất như danh lợi, tước quyền và bảo vật có tính cách tinh thần như hạnh phúc.

Sanh ra ai cũng như ai, đều là dốt nát từ buổi ban sơ, nhờ học với trường và học trong đời mà người ta mới có kiến thức. Ai bền tâm học hỏi thì kiến thức được nhiều, nghĩa là có tâm tạo nên kiến thức, cũng nên tạo nên trí tuệ. Người nên biết dùng trí tuệ mở rộng cái tâm để thâu nhập, kiến thức, thì kiến thức được chánh đại.

Trong pháp Hạnh phúc thứ VII này, Đức Phật dạy ta phải nghe nhiều hiểu rộng để làm lợi ích cho mình.

Trong Tạng Kinh có nhiều đoạn được Đức Phật dạy chúng sanh phải nghe nhiều, hiểu rộng để làm lợi ích cho mình. Trong bộ kinh Digha-nikāya đoạn Pativagga, Đức Thế Tôn có dạy rằng cha mẹ có 5 phận sự đối với con, mà một phận sự là cha mẹ phải lo cho con ăn học thành tài.

Cũng trong kinh ấy, Ngài dạy: Bậc trò đối với thầy cũng có 5 phận sự, trong đó có một phận sự là thầy phải dạy học trò cho chu đáo.

Trong kinh Anguttaranikāya đoạn Chakka-nipatta, Đức Phật có dạy 6 điều kính trọng, trong đó có một điều là kính trọng hay cố tâm học.

Cũng trong kinh ấy, Ngài lại dạy về thất bửu nhà Phật mà có một câu dạy Bāhusacca, nghĩa là nghe nhiều hiểu rộng.

Trong kinh Anguttanrannikāya đoạn Dasaka-nipatta, Ngài dạy rằng tâm có một chỗ nương nhờ mà một chỗ nương nhờ đó là nghe nhiều học rộng.

Bao quát hơn, Đức Phật dạy tín đồ về tam học là Giới-Định-Tuệ, để nghe nhiều học rộng cho chân chánh, để hiểu rõ chân lý của Ngài mà hành theo, hầu thoát khỏi trầm luân.

Người ta có thể hỏi: Chúng ta nên học những gì? Trong đời này có nhiều môn để người học. Phật dạy người nên chọn một nghề nào mà mình thích và có khả năng học được. Nghề nào cũng chẳng hèn, miễn là nghề ấy là nghề vô tội, hay nói theo Bát Chánh Đạo, là chánh nghiệp.

Tóm lại, người tại gia cư sĩ học gì cũng được, miễn là có chánh nghiệp và chánh mạng. Còn bậc xuất gia thì phải học ba điều để làm kiến thức căn bản:

a) Pariyattisutta: học nhiều hiểu rộng về pháp học, đó là về Tam Tạng thánh điển.

b) Patipattisutta: nghe nhiều học rộng về pháp hành, và hành theo chánh đạo để đạt Niết Bàn.

c) Pativedhasutta: nghe nhiều học rộng về pháp thành, là hiểu rõ pháp giải pháp và hành cho giải thoát.

Bậc gọi là nghe nhiều hiểu rộng phải có đủ 5 điều kiện là:

– Bāhusutta: được nghe nhiều học rộng.

– Dhata: thuộc rõ ý nghĩa của các pháp.

– Vacasa paricittā: thuộc làu và có thể giảng giải và ví dụ cho người nghe hiểu rõ rệt những pháp mà mình giảng.

– Manasānupekkhā: hằng suy nghĩ nghiên cứu các pháp, nghĩa là hằng hành theo pháp mà mình đã học hiểu rồi, và nhận thấy lợí ich của sự học nhiều hiểu rộng.

– Ditthya supatividdhā: hiểu thấu bằng trí tuệ, nghĩa là dùng minh sát tuệ quan sát cho thấy rõ ngũ uẩn và đắc được đạo quả Niết Bàn.

Bậc Phật tử nghe nhiều hiểu rộng có được nhiều sự hạnh phúc là:

1. Hiểu rõ ý nghĩa của Tam Tạng.

2. Được nhiều phước cao quý.

3. Hiểu thông pháp học và pháp hành.

4. Đối đáp rất giỏi khi bị cật vấn.

5. Nói năng hoạt bát.

6. Hộ trì Pháp.

7. Không dễ duôi.

8. Được hưởng hương vị của Pháp.

9. Sẽ được an lạc trong cõi người và trời hay Niết Bàn trong ngày vị lai.

10. Diệt được tam độc từ từ.

11. Được lợi lộc, danh dự, quyền chức, ngợi khen và hạnh phúc.

12. Dứt hết nhân quả và không còn luân hồi nữa.

Chính Đức Phật đã dùng trí tuệ để hiểu biết và cứu độ chúng sanh, chẳng hạn như sự tích sau đây:

Thời quá khứ, Đức Bồ tát sanh vào dòng Bà la môn và giữ chức quân sư của vua xứ Bārānasī. Ngài tên là Senaka, ngài nổi danh là bậc trí thức nghe nhiều hiểu rộng. Ngài thường đăng đàn thuyết pháp vào ngày mùng 8, rằm, 23 và 30, thường dạy người bỏ dữ về lành, thực hành theo thiện pháp, như thọ trì ngũ giới hay theo bát quan trai. Đây là sự hành trì tuệ Ba la mật của ngài.

Lúc ấy, có một thầy Bà la môn ăn xin chuyên nghiệp. Ông ấy dành dụm được một trăm đồng, ông đem gới cho một người bạn.

Vì túng quẫn nên người bạn của ông ta xài hết số tiền ấy, ông phải đem con gái của ông gả cho thầy Bà la môn ăn xin ấy để trừ số tiền.

Khi được vợ trẻ đẹp, thầy Bà la môn không còn biết gì hơn là vợ. Vợ ông sai ông đi xin một nơi xa để có nhiều tiền cho cô tiêu dùng. Nhân dịp ông chồng già đi vắng, cô lại tư tình với một thầy Bà la môn trẻ tuổi. Thầy Bà la môn già đi xin xứ xa lâu ngày, để dành một số tiền lớn là 700 đồng, lật đật trở về thăm vợ. Khi về gần tới nhà, thầy đến ngồi dưới cội cây to có bộng, rồi mở bị ra lấy cơm ăn, khi ăn xong, thầy xuống mé sông uống nước. Khi ấy có một con rắn độc chun vào bị của ông, tự nhiên ông không hay biết. Khi uống nước xong, lên cột bị lại rồi mang lên vai ra đi, ông không hề biết rằng có con rắn đã nằm trong bị. Vị thọ thần ở trên cội cây ấy thấy vậy thương hại ông nên nói rằng “Thầy Bà la môn ơi, nếu thầy chưa về tới nhà đêm nay, thì thầy chết dọc đường; bằng về tới nhà thì vợ thầy chết”.

Thầy Bà la môn lấy làm kinh sợ vì thầy không muốn chết, mà cũng không muốn cho vợ chết. Ông khóc lóc và đi vào thành. Ngày ấy, nhằm ngày giới, Đức Bồ tát Senaka có thuyết pháp tại tư dinh của ngài, nên người trong thành đem hương đăng, hoa đen tư dinh của ngài để nghe pháp. Thầy Bà la môn biết tin ấy, nên ông liền theo đoàn người đi nghe thuyết pháp, và nghĩ rằng: “Ta nghe pháp, lòng ta sẽ yên tịnh”. Khi đến nơi, thầy Bà la môn ấy than vãn, khóc lóc. Đức Bồ tát mới hỏi và biết mọi việc, ngài lại hỏi: “Khi thầy ăn cơm xong, có bỏ đi uống nước mà có cột cái bị lại không?” Thầy đáp: “Có đi, nhưng không có cột bị”. Đức Bồ tát đã biết rằng có rắn độc bò vào trong bị của thầy, nếu thầy mở bị ra ăn cơm chiều thì rắn ấy sẽ cắn thầy, bằng về nhà vợ mở ra thì vợ sẽ bị rắn cắn. Đức Bồ tát cho mời các thầy thuốc rắn giỏi đến và bảo: “Thầy phải nới cái bị của thầy ra ngay bây giờ”. Khi bị vừa mở, con rắn bò ra, liền bị thầy rắn bắt và đem đi bỏ một nơi xa. Những người có mặt nơi ấy đều hoan hô công đức của Bồ tát.

Ngài mới cho thầy ấy thêm ba trăm đồng nữa hiệp với bảy trăm của thầy xin được cho đủ ngàn; và dạy thầy Bà la môn ấy rằng “Ngươi đem của này về chôn giấu một nơi nào, xong rồi hãy vào nhà.” Thầy Bà la môn bái tạ Đức Bồ tát rồi về, đem giấu tiền vào một chỗ kín rồi mới vô nhà. Vợ ông lo nước cho ông tắm rữa rồi hỏi ông đi xin được bao nhiêu tiền bạc. Ông nói thật cho vợ biết đã xin được một ngàn đồng và cho biết số tiền đem giấu ở chỗ kín nọ. Vợ ông liền cho nhân tình biết chỗ giấu tiền. Người nhân tình bèn đến nơi ăn cắp số tiền giấu đó. Sáng ngày hôm sau thầy Bà la môn đến nơi mình chôn giấu tiền để lấy về, mới thấy số tiền đã mất. Ông khóc lóc và đến nhà Đức Bồ tát thuật lại tự sự.

Đức Bồ tát lấy tiền khác cho thầy và dạy rằng: “Thầy hãy về làm lễ cúng dường cho các thầy Bà la môn, để hồi hướng phước báu cho cha mẹ thầy. Phần thầy mời 7 vị Bà la môn và phần vợ thầy mời 7 vị. Rồi mỗi ngày phải bớt đi một cho đến ngày thứ bảy. Rồi thầy cho ta biết vị nào còn sau hết.”

Thầy vâng lời làm theo. Đến ngày thứ bảy, bên vợ thầy còn một thầy Bà la môn trẻ tuổi. Thầy đến cho Đức Bồ tát biết, Đức Bồ tát ra lệnh bắt thầy Bà la môn ấy đến thẩm vấn, lập tức ngài hỏi: “Tại sao người trộm tiền của thầy Bà la môn già này?”

Thầy Bà la môn trẻ tuổi chối: “Thưa ngài Đại trí thức, tôi nào có ăn cắp của ông ta đâu”.

Đức Bồ tát nói “Ngươi đừng chối, ngươi hãy thú thật đi, vì ta đã hiểu hết rồi.”

Vì kinh sợ, nên thầy Bà la môn trẻ tuổi ấy cung khai hết mọi việc.

Sau khi thuyết tích này xong. Đức Thế Tôn mới dạy rằng “Này các thầy Tỳ khưu, trong khi Như Lai sanh làm vị đại trí thức tên Senaka ấy, Như Lai trông thấy rõ nguyên nhân của chuyện ấy bằng trí tuệ và đã giải khổ cho thầy Bà la môn ấy”.

Người đã biết rộng hiểu nhiều còn cần phải có thêm trí tuệ thì kiến thức mới có lợi, mới có lợi lạc. Mà muốn có trí tuệ, thì phải hành theo Phật pháp và trước hết, phải biết những nguyên nhân nào làm cho trí tuệ được phát sanh và tiến triển.

Có 4 nguyên nhân phát sanh trí tuệ:

1. Sappurisupasamseva: thân thiện với các bậc trí thức.

2. Sadhammasavana: nghe pháp (lời dạy bảo) của bậc trí thức như là:

– Saddhā: có đức tin. Tin nhân quả.

– Sīla: trì giới (Ngũ giới hay Bát quan trai giới, hay Cụ túc giới).

 Hiri: có sự hổ thẹn tội lỗi.

– Ottappa: có sự ghê sợ tội lỗi.

– Bahusacca: học nhiều hiểu rộng.

– Cāga: biết bố thí.

– Pañña: có trí tuệ

4. Yonisomanasikara: khi được nghe pháp của các bậc trí thức xong, phải nghiệm xét cho chu đáo rồi hãy hành theo.

5. Dhammanudammapatipatti: hành đúng theo những pháp của các bậc trí thức đã dạy cho cao thượng.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.