Giảng Giải 38 Pháp Hạnh Phúc – Chương 3 & 4

KỆ NGÔN IV – HẠNH PHÚC XI

Mātāpitu upaṭṭhānaṃ
Nết hạnh phụng dưỡng mẹ cha

Những lời Phật dạy trong 38 điều Hạnh phúc phân ra từng giai đoạn. Mười pháp hạnh phúc đầu tiên, từ một tới mười, dạy ta tự sửa chữa và lo cho bản thân mình trở nên tốt, để mình tạo lấy một số vốn cho mình. Hạnh phúc thứ mười một trở đi, dạy ta những pháp để tỏ nết hạnh tốt của mình ra ngoài bản thân. Những nết hạnh tốt đó Đức Phật đã dạy trong câu kệ thứ tư như vầy:

Mātāpitu upaṭṭhānaṃ,

Puttadārassa saṅgaho,

Anākulā ca kammatā,

Etammaṅgalamuttamaṃ.

Nghĩa là nết hạnh phụng sự mẹ cha; nết hạnh tiếp độ con, vợ; làm những điều không gây tội. Đây là ba điều hạnh phúc cao thượng.

Ba điều trong câu kệ này dạy ta đem an vui đến cho những người ở ngoài bản thân ta, ở chung quanh ta trước sau có thứ tự, từ người nào gần ta hơn hết trước, rồi mới đến người ở xa ta sau. Mà ai là người gần ta nhất? Gần ta nhất, một là mẹ, hai là cha, ba là con, bốn là vợ.

Trong điều Hạnh phúc XI này, vô tình hay hữu ý mà Đức Phật sắp những người thân của ta theo thứ tự: mẹ, cha, con, vợ.

Tại sao Đức Phật lại sắp mẹ trước cha, con trước vợ? Có phải là vì mẹ đối với con có công ơn nhiều hơn là cha không?

Vấn đề này thường gây ra sự tranh biện giữa các tín đồ, vì có người cho rằng mẹ có công ơn lớn hơn cha, vì mang nặng đẻ đau và có công lo nhiều hơn cha. Hơn nữa, khi Đức Thế Tôn còn tại thế thì là thời kỳ phụ hệ, mà Đức Thế Tôn không kể cha trước mẹ, thì đủ thấy rằng, theo Ngài thì mẹ có nhiều công đức hơn cha, cũng vì vậy cho nên Ngài mới thuyết pháp hằng 3 tháng và thuyết toàn là kinh có ý nghĩa cao siêu, mà ta gọi là Tạng Luận (Vi Diệu Pháp), để độ Phật mẫu.

Có người lại bảo rằng, cha có công đức nhiều hơn, vì nếu không có cha thì không có con và nếu chiếu theo giai cấp mà nói thì Đức Thế Tôn biết Phụ vương bệnh nặng sắp thăng hà, Ngài ngự về thành thuyết pháp luôn 7 ngày đêm để độ Phụ vương đắc quả A La Hán, và sau khi ấy, chính mình Ngài tẩm liệm Phụ vương, chính mình Ngài khiêng quan tài khi đưa ra làm lễ Trà Tỳ.

Hai lập luận trên đều có lý, nhưng sự thật không có đoạn kinh nào Đức Thế Tôn dạy rằng một vị nào trong hai vị đó có ơn nhiều hơn hay ít hơn, mà là bằng nhau.

Nguyên trước khi Đức Phật thuyết pháp độ Phụ vương cũng như Phật mẫu, Ngài đều do nơi trí tuệ của Ngài đã quan sát và hiểu rõ duyên lành của cha mẹ rồi, Ngài mới thuyết pháp hợp thời và hợp tình hợp cảnh để cho cha mẹ, rồi nhận định pháp ấy mà đắc quả. Ngài biết rằng, Phật mẫu phải nghe pháp ấy mới đắc quả, mà chỉ là quả Tu Đà Hườn thôi. Hơn nữa chư thiên đến thính pháp trong lúc ấy, toàn là các bậc có căn cơ cao, phải nghe pháp ấy mới có kết quả lần cho quý ngài, nên Đức Thế Tôn mới thuyết Tạng Luận.

Còn đối với Phụ vương, sở dĩ Đức Phật đợi vua cha khi gần thăng hà Ngài mới thuyết một ngàn câu kệ ròng rã bảy ngày đêm hầu độ cha đắc quả A La Hán, mà không thuyết pháp cho cha nghe trước khi ấy, là vì Ngài vốn là bậc Điều Ngự Trượng Phu. Ngài biết duyên lành của Đức Tịnh Phạn Vương chưa đến trước lúc lâm chung, dù có thuyết đến hàng triệu câu kệ cũng bằng thừa, nên Ngài đợi đến khi duyên lành mùi rồi ngài mới thuyết.

Nói tóm lại thì không phải vì pháp thuyết nhiều hay ít, quá độ được cao hay thấp, mà bảo Đức Phật đo lường công ơn của cha mẹ. Dù độ cha hay mẹ, Ngài cũng rất hết lòng làm tròn phận sự của con, huống chi đối với chúng sanh nào có duyên với Ngài, cũng không thối chí ngã lòng, chẳng hạn như Ngài độ tướng cướp hung tàn nhất trong thời kỳ ấy, tên Angulimala (Vô não), là tướng cướp đã rượt Ngài cả ba do tuần để giết, mà Ngài vẫn cố độ cho kỳ được. Tâm của Đức Phật đối với chúng sanh rất bình đẳng, không hề phân biệt thân, thù. Ngài chỉ do căn cơ và duyên lành của chúng sanh mà tế độ thôi.

Đến đây, người ta có thể hỏi: Vậy tại sao Đức Thế Tôn lại dạy phụng sự mẹ, cha? Như tôi đã nói trên kia, ta nên đem lợi ích cho người nào gần ta hơn hết. Chắc chắn ai cũng công nhận rằng ta là người gần mẹ nhiều hơn hết hay ngược lại, mẹ ta là người gần ta hơn ai hết. Bảo rằng ta gần mẹ, không phải ta mặc nhiên khẳng định nhận công mẹ lớn hơn công cha. Nhưng người gần mình nhất, là người mà mình có nhiều dịp giúp đỡ nhất. Theo ý Đức Thế Tôn dạy, thì không phân biệt công ơn của hai vị, mà tùy trường hợp nào có thể giúp thì giúp lập tức.

Phận sự làm con phải biết công ơn cha mẹ và lo đền đáp, đó là con đường đi của các bậc thánh nhân, của Đức Phật. Đức Phật có dạy rằng, sự hiếu thảo là con đường đi của các bậc Bồ tát. Trong một kiếp nọ, Đức Phật sanh làm đạo sĩ tên Sona-pandita, Ngài có dạy một vị vua về sự thực hành của chúng sanh, mà rất ít có chúng sanh nào thực hành được. Ngài dạy toàn bằng kệ ngôn, câu kệ này trong bộ Túc Sanh Truyện gọi là Sonananda, dạy rằng: “Cha, mẹ hy sinh tất cả các sự hạnh phúc cho con. Khi bà mẹ biết rằng, trong mình thọ thai, chưa biết mặt con ra sao, trai hay gái, nhưng lòng vẫn băn khoăn lo sợ, hằng van vái thai bào được bình an. Như vậy cũng vẫn chưa vừa lòng, bà còn đi coi bói cho biết con trai hay con gái, rồi xem năm tháng ngày sanh có tốt không, lại còn tìm hỏi các bậc lão thành xem khi có thai phải kiêng cử những gì, ước mong và cầu khẩn xin cho sanh quí tử”.

Những điều làm khổ cho cha mẹ nhất là bệnh ốm nghén. Bệnh ốm nghén là bệnh rất lạ, khiến thèm những món gì khi chưa có thai không thèm. Tôi xin nhắc lại chuyện ốm nghén của Hoàng hậu của đức vua Bình Sa Vương:

Khi bà có thai Thái tử A Xà Thế, bà thèm uống máu của vua Bình Sa. Bà biết sự thèm muốn của mình xấu xa đê tiện, nên không dám nói ra, đến nổi ốm gầy. Đức vua thấy thế phán hỏi nhiều lần bà mới nói. Đức vua liền rút gươm đang đeo bên mình, sẻ thịt bắp tay cho ra huyết để vợ uống. Từ đó bà hết thèm uống máu nhà vua nữa. Tin này thấu đến triều thần các thầy Bà la môn đoán điềm biết rằng, sau này Thái tử sẽ giết vua, nên các ông khuyên vua giết hay đem bỏ con, lúc lọt lòng. Nhưng tấm lòng cha thương con không bờ bến, nên ngài vẫn nuôi như thường và đặt tên là Ajātasatru, nghĩa là người có thù trước khi sanh. Sau nầy, Thái tử giết cha giam mẹ.

Nhắc tích này để quí vị thấy lòng thương con của cha mẹ, không có một sức mạnh nào chặn đứng được. Vì vậy ta không thể phân biệt được công ơn của cha mẹ ai hơn ai.

Chẳng những bà mẹ có công đức, mang nặng đẻ đau mà thôi, bà lại có thêm cái biệt tài là biết cách nuôi dưỡng con, săn sóc con còn nhỏ, khi chưa biết nói mà bà đã hiểu ý muốn của nó. Khi nghe con khóc, lật đật bồng ẵm vào lòng ru và vỗ về chẳng luận ngày đêm, sớm khuya, trưa tối. Nếu dỗ không nín bà cho bú, bà tìm thế dỗ cho đến con nín mới thôi, vì vậy Đức Phật gọi mẹ là Posenti nghĩa là người phụ nữ biết vỗ về đứa bé chưa biết gì cả, đến đổi phải vừa lòng với bà.

Trong bộ kinh Majjhimanikāya Mulapaññā-saka, có dạy rằng: “Này các thầy Tỳ khưu, cha mẹ là đấng có tâm rất lành đối với con, bắt đầu từ khi vừa biết thọ thai bà mẹ hết sức lo bảo vệ thai bào, ông cha thì lo thang thuốc cả mười tháng như vậy. Các thầy Tỳ khưu này, bà mẹ hết sức lo và cố gắng săn sóc con, không nài cực nhọc, không một việc nhỏ nhen nào mà bà không quan tâm tới, chính bà là người san sớt máu cho con, chẳng những lo cho con khi còn trong thai, mà mãi đến khi vừa sanh ra cho đến lớn khôn, bà mẹ và ông cha lo cho đến khi nào hai ông bà từ bỏ cõi đời này”.

Mẹ và cha khi biết mình đã có con, thì hai ông bà lo tiết kiệm tiền của để cho con, lắm khi vì lòng thương con mà dám làm tội ác, để có tiền nuôi con, hoặc để dành cho con về sau. Khi nào con đi đâu về trễ, ông bà lo sợ, nhất là cha mẹ dựa cửa ngóng trông, sợ con gặp tai nạn.

Vì vậy Đức Phật dạy: Cha mẹ đối với con có bốn đức, là Từ, Bi, Hỉ, Xả, lại có câu kệ ngôn dạy rằng: Ubhopi ce te brahmāpubbadevā pubbacāryā ahuneyyati ca vuccati.

Nghĩa là đối với hai đấng đại ân nhân ấy, Đức Phật có ban cho bốn hồng danh là: Phạm thiên, chư thiên thuở đầu, vị tôn sư trước nhất, bậc đáng cúng dường.

Hồng danh thứ nhất, Phạm thiên, có nghĩa là cao quí, ý nói cha mẹ nuôi dưỡng con được hoàn toàn không nài khó nhọc, vì cha mẹ có tứ vô lượng tâm, nghĩa là tâm cao quí không lấy gì đo lường được; bốn tâm ấy là: Từ (Mettā), Bi(Karunā), Hỉ (Muditā), Xả (Upekkhā). Bốn tâm này giờ phút nào cũng ở trong cha mẹ và hằng ban bố đến con, mặc dù con đã lớn khôn, đã nên quan to, giàu có, cũng như Phạm thiên, bao giờ cũng niệm tứ vô lượng tâm không ngừng nghỉ. Vì lẽ ấy, nên Đức Phật mới cho cha mẹ hồng danh làm Phạm thiên.

Bốn tâm vô lượng ấy phát sanh đến cha mẹ từ bao giờ?

Tâm Từ phát sanh đến cha mẹ, kể từ khi bà mẹ biết mình thọ thai. Ngay từ khi ấy, cha mẹ lo lắng mong thấy mặt con, muốn biết xem con ấy là trai hay gái, đẹp hay xấu, có tật bệnh gì không. Suy tư như thế gọi là tâm từ đã sanh.

Tâm Bi có từ khi bà mẹ vừa sanh con ra khỏi lòng. Mặc dù trong khi ấy mẹ còn đau đớn cực nhọc, nhưng khi nghe tiếng con khóc, mẹ lo nghĩ đến con, thương con và lo sợ cho sức khỏe của con. Lòng thương con không biết bờ bến nào mà kể.

Tâm Hỉ có từ khi con vừa biết đi đứng cho đến khi lập gia đình, vẫn đến khi cha mẹ chết. Cha mẹ thấy con càng an vui, càng mừng và càng cầu nguyện cho con thêm, không bao giờ cha mẹ biết ganh tị với con về hạnh phúc của con. Mặc dù con có nuôi cha mẹ hay không, cha mẹ cũng không đòi hỏi và cũng không than van phiền trách.

Tâm Xả phát sanh lên, khi con khôn lớn có gia đình, giàu hay nghèo chẳng hạn, mà không lo phụng sự hoặc giúp đỡ cha mẹ, cha mẹ cũng không bao giờ buồn và không đòi hỏi chi ở con. Mặc dù con có lầm lỗi phạm thượng, cha mẹ vẫn vui lòng tha thứ, không có oán như người dưng kẻ lạ.

Theo hồng danh thứ nhì, Phật gọi cha mẹ là chư thiên thuở đầu, bởi cha mẹ là người duy nhất cố tâm đem hạnh phúc lại cho con, không bao giờ cố chấp lỗi lầm nào của con, không muốn con mình bị tai nạn. Thời kỳ Đức Phật còn tại thế, người thời ấy chỉ biết tin ở một đấng siêu việt có thể tiếp độ chúng sanh về thiên đàng, mà người thời ấy gọi là chư thiên, vì lẽ ấy nên Đức Phật gọi cha mẹ là chư thiên của con.

Theo hồng danh thứ ba, Phật gọi cha mẹ là vị tôn sư trước nhất, bởi cha mẹ là thầy tổ dạy con đủ mọi việc, từ đi, ăn, ngủ đến đạo lý luân thường, trước hơn tất cả các vị tôn sư sau này.

Theo hồng danh thứ tư, Phật gọi cha mẹ là bậc đáng thọ lãnh của cúng dường, vì chỉ có cha mẹ đáng thọ lãnh tất cả mọi vật của con đem đến dâng cúng.

Lòng thương và lo cho con của cha mẹ không bờ bến như thế, nên bổn phận làm con có phận sự phải phụng dưỡng cha mẹ cho tròn chữ hiếu. Người con nào không lo tròn hiếu trước, thì người ấy không phải là một người đáng làm bạn, mà cũng không xứng đáng làm chồng hay vợ, mà cũng không thể làm một công dân tốt của mọi quốc gia. Con mà bất hiếu còn thua cây gậy của cha mẹ, chẳng khác nào năm đứa con trong sự tích sau đây:

Theo Pháp Cú kinh, thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên tịnh xá của trưởng giả Cấp Cô Độc. Khi ấy có một vị Bà la môn rất giàu, ông có năm người con trai đã lập gia đình xong.

Sau khi vợ ông đã quá vãng, ông muốn cưới vợ bé để coi sóc gia đình, năm con dâu nghe vậy mới bàn với năm người chồng rằng: “Nay cha đã già rồi mà còn cưới vợ nhỏ về làm gì? Để chúng tôi thay phiên nhau chăm sóc cho cha, không hơn sao?”.

Năm người con trai mới đến hầu cha, trình bày tự sự. Ông cha bằng lòng chia của ra làm năm phần cho năm người con, còn ông thì ở đậu với năm con, hết với đứa này đến đứa khác. Ban đầu, năm cô con dâu còn đối với ông tử tế, sau lần lần phai lợt, sau cùng cả năm người dâu đều bỏ ông, không lo săn sóc, trái lại còn xua đuổi ông. Ông không thể chịu nổi cảnh hất hủi ấy, ông bỏ nhà đi xin ăn, ở theo đầu đường xó chợ thật là khổ sở.

Ngày nọ ông gặp được một người bạn cũ, bèn thuật hoàn cảnh của ông, và xin người bạn tìm phương cứu giúp. Người bạn đáp: “Tôi không biết phương pháp nào giúp bạn được, vậy bạn hãy vào chùa Kỳ Viên, để chờ đấng cứu thế là Đức Thích Ca Mâu Ni, ngài là đấng có đủ khả năng cứu người cả vật chất và tinh thần”.

Ông nghe lời vào hầu Phật và cầu xin Phật chỉ phương pháp nào cứu khổ ông. Đức Thế Tôn dạy ông vào đêm ngày rằm đến nghe thuyết pháp và sau thời pháp thì sẽ làm như lời Ngài sẽ bảo.

Đêm rằm có rất nhiều tín đồ đến nghe pháp, mà trong ấy có cả năm người con trai ông và đức vua Ba Tư Nặc. Sau khi dứt thời pháp, tín đồ đứng lên ra. Ông Bà la môn ta nói: “Xin quí vị thiện nam tín nữ và đàn na thí chủ, hãy tạm dừng lại để cho lão bộc bạch đôi lời. Có lẽ quí vị không quên già này, trước đây là một vị trưởng giả trong thành này. Hôm nay, già này phải đi xin ăn. Thật ra già có con, mà con của già không bằng cây gậy này, vì cây gậy này, già còn nhờ được để chống đi, ngừa lúc chân run tay yếu, hoặc để đuổi chó đánh mèo, còn con của già, khi được chia của cho, lại bỏ già đi xin ăn như thế này”.

Các tín đồ có mặt nơi ấy nhất là đức vua liền hỏi ai là con ông. Ông chỉ mặt từng người, đức vua và công chúng rất công phẩn, muốn giết hết năm người con bất hiếu, nhưng ông xin tha tội cho. Năm đứa con ấy mới thấy lòng xả của cha, bèn ăn năn, xin ông đem về nuôi dưỡng. Khi ông về nhà con, mấy con dâu tỏ vẻ bất bình, nhưng năm người con trai ông nói rằng: “Nếu các người không bằng lòng, thì cứ tự tiện ra đi, chứ chúng tôi không đê hèn hơn cây gậy của cha chúng tôi”.

Nhắc lại tích này, tôi muốn chỉ rằng, làm con không biết phụng dưỡng cha mẹ, hay phụng dưỡng một cách miễn cưỡng, còn thua loài ăn cỏ và điều thứ nhì tôi muốn chỉ thấy rằng: Đức Thế Tôn chẳng những cứu người khỏi vòng luân hồi mà thôi, riêng về vật chất ngài cũng tìm phương cứu độ.

Đức Phật dạy rằng: “Các bậc trí thức đều được kính trọng, những người phụng dưỡng cha mẹ, và người biết phụng dưỡng cha mẹ sẽ gặp nhiều sự an vui là do nhờ quả của sự phụng dưỡng cha me”, như sự tích Túc sanh truyện sau đây:

Khi xưa có một con kên kên rất hiếu thảo với cha mẹ. Vì già nên không thấy đường, nên không thể đi kiếm ăn được, hai con kên kên già chỉ nhờ con đi kiếm mồi về nuôi, và đem vải về làm tổ cho ở. Ngày nọ, kên kên con đi kiếm mồi, rủi mắc chân vào bẩy của một anh thợ săn. Kên kên khóc. Anh thợ săn thấy vậy mới hỏi: “Người đời thường bảo rằng, kên kên có mắt rất tỏ, thấy rõ các tử thi ở rất xa, vậy tại sao người lại mắc vào bẩy của ta?”

Kên kên mới nói: “Này anh thợ săn, có hai điều mà ai ai cũng không trông thấy được: một là tai nạn và hai là cái chết, nó đến bên ta, ta cũng không trông thấy, mặc dù ta có mắt thấy ngàn dặm. Vì vậy tôi mới mắc bẩy của anh”. Anh thợ săn nghe vậy, phát tâm trong sạch và nghĩ rằng kên kên biết nói và có trí tuệ như vầy, chắc là kên kên biết phụng dưỡng cha mẹ. Anh mới thả kên kên. Khi được thả, kên kên lật đật kiếm mồi về nuôi cha mẹ. Kên kên ấy là tiền thân của Đức Thế Tôn.

Trong bài kinh Brahmasutta, Đức Thế Tôn có dạy rằng, cha mẹ là hai đấng có công ơn vô lượng vô biên đối với con. Nếu người con nào có hiếu thâu phục năm châu bốn biển để cho cha mẹ cai trị, hưởng sự an lạc như thế, là cùng tột rồi, nhưng cũng chưa gọi là đáp đền được công ơn sanh dưỡng trong muôn một. Chỉ người ấy chỉ lo phần vật chất của cha mẹ thôi, hay có thể nói theo Phật giáo, chỉ lo cho cha mẹ kiếp hiện tại thôi. Vả lại, vua là tột đỉnh cao sang, nhưng làm sao chạy khỏi tội lỗi. Phàm người con có hiếu phải cố gắng làm sao cho cha mẹ biết tu hành để giải thoát, hay làm sao cho cha mẹ có bốn pháp này trong tâm, nghĩa là thực hành bốn pháp:

1. Saddhā: đức tin, nghĩa là tin Tam Bảo, tin nơi nghiệp.

2. Cāga: bố thí hay dứt bỏ, tức là dứt bỏ lòng tham lam, bố thí cho người nghèo khổ (đây là nguyên nhân đem lộ phí theo về ngày vị lai).

3. Sīla: trì giới, là giữ cho thân, khẩu, được an tịnh, không phạm vào năm điều tội ác.

4. Pañña: trí tuệ, nghĩa là trí tuệ để quan sát thấy thân này vô thường, khổ não và vô ngã, nghĩa là có minh sát tuệ để quán tưởng thấy chán ngán thân này, không còn quyến luyến thương tiếc mọi việc đời.

Nếu cha mẹ đã quá vãng thì bổn phận làm con nên cố gắng làm mọi việc lành, rồi hồi hướng đến cha mẹ hằng ngày. Người con nào làm được như thế mới gọi là con có hiếu và đáp đền được công ơn sanh dưỡng trong muôn một.

Người nào có phước mới còn cha mẹ tại tiền. Người còn có cha mẹ tại tiền trong nhà, cũng như có chư thánh nhân trong nhà vậy. Theo Đức Thế Tôn, cha mẹ có thể sánh với chư thánh nhân, bởi vậy cúng dường đến cha mẹ có phước vô luợng vô biên, cũng như cúng dường cho các bậc A La Hán vậy.

Phàm người biết công ơn cha mẹ thì phải lo cách đáp đền bằng vật chất và bằng tinh thần.

Đền đáp công ơn bằng vật chất phải thực hành như thế này là:

1. Phải hết lòng cung kính cha mẹ, không bao giờ dám nói một lời nào vô lễ, làm trái ý.

2. Phải lo phụng dưỡng cha mẹ, cung cấp vật thực, thuốc uống, y phục và chỗ ở. Phải quạt nồng đắp lạnh, sớm thăm tối viếng cha mẹ, cũng như khi ta còn nhỏ cha mẹ lo cho ta.

3. Phải lo chăm nom săn sóc cha mẹ khi có bệnh.

4. Phải bỏ việc gia đình của mình để làm việc cho cha mẹ trước, và không bao giờ nghĩ đến việc riêng của mình khi chưa làm xong công việc của cha mẹ.

Đền đáp công ơn cha mẹ về tinh thần là:

1. Gắng hết sức giữ gìn thanh danh của gia đình, không để cho người đời khinh bỉ, hơn nữa gắng làm sao thanh danh của gia đình càng ngày càng được người ca tụng.

2. Gắng làm cho mình ra người đáng thọ hưởng gia tài của cha mẹ để lại.

3. Khi cha mẹ ta không có đức tin với Tam Bảo, không thọ tam qui ngũ giới, tự mình cố gắng khuyên; nếu không được, thì gắng nhờ các bậc trí thức giảng giải hộ mình hoặc chư Tăng hay các bậc đại đức thuyết pháp độ cha mẹ.

4. Ít lắm ta cũng phải làm sao thuyết phục được cha mẹ thọ tam qui ngũ giới.

5. Dẫn dắt cha mẹ vào chùa nghe pháp, bố thí và học minh sát tuệ. Người làm tròn được những đều trên đây mới gọi là con biết yêu thương cha mẹ và báo đền được muôn một công ơn cha mẹ.

Phần người con biết đền đáp công ơn cha mẹ, thì được những sự hạnh phúc là:

1. Không bị mất sự lợi ích.

2. Sẽ được thoát khỏi những điều kinh sợ.

3. Sẽ thoát khỏi được tất cả tai nạn.

4. Sẽ được lợi lộc do các bậc trí thức hay vua chúa ban cho.

5. Sẽ được quyền cao chức lớn do vua phong.

6. Hằng được sự ngợi khen của hàng đại chúng ở mọi nơi và mọi trường hợp.

7. Sẽ thoát khỏi sự ám hại của kẻ bất lương.

8. Khi có bị tai nạn cũng có chư thiên đến cứu.

9. Sau khi chết được sanh về cõi trời.

10. Sẽ được sanh về cõi Niết Bàn.

11. Đi theo con đường của chư Bồ tát và chư thánh nhân.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.