Giảng Giải 38 Pháp Hạnh Phúc – Chương 3 & 4

HẠNH PHÚC XIV

Anākulā ca kammantā
Làm xong việc của mình

Làm xong việc của mình nghĩa là làm việc gì thì phải làm cho đến kết quả, không làm nửa chừng bỏ dở. Thí dụ ta như người lái xe, ta nhờ chiếc xe chạy được và có địa điểm cho xe tới, thì ta chạy đến chốn đến nơi. Chạy đến mục tiêu như vậy là ta thành công đắc quả. Ta nên noi theo gương kiên trì của Đức Phật, ngay trong việc làm của Ngài, từ lúc xuất gia đến khi thành đạo. Trên vũ trụ này, chỉ có một người làm việc giỏi nhất mà lại kết quả tốt đẹp, nhất đó là Đức Phật. Đã hơn 25 thế kỷ chưa có ai làm việc như Ngài, việc làm của Ngài thật là cao thượng, kết quả rất quý báu. Số người vâng giữ hành theo lời chỉ bảo của Ngài nhiều không kể xiết.

Ta hãy đi ngược lại dòng thời gian để tìm biết sự làm của Đức Phật, từ khi Ngài quyết chí xuất gia dứt lìa bỏ ngai vàng, vợ đẹp con thơ, mà người đời ai ai cũng ham muốn. Khi xuất gia xong, Ngài quyết chí hành khổ hạnh. Khi thấy sự hành khổ hạnh ấy không đem lại kết quả tốt, Ngài liền bỏ và hành theo Trung đạo mới đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác dưới cội bồ đề. Sau khi đắc được quả tối cao xong, rồi Ngài lại quyết định thuyết pháp độ đời suốt 45 năm, không màng cực nhọc quyết tâm cứu độ chúng sanh.

25 thế kỷ đối với ta thật là lâu, nhưng việc làm của Ngài vẫn còn sáng chói, và vẫn xem như mới tinh. Việc làm của Ngài là việc làm bất diệt, đến nay vẫn còn ảnh hưởng mãnh liệt trong tâm của hàng Phật tử chân chánh. Việc làm của Ngài đi từng giai đoạn, từ sơ khởi đến kết quả, không bỏ dở dang, mặc dù đã trở ngại.

Muốn làm việc cho đến nơi đến chốn, ta nên theo lời Phật dạy mà phân biệt việc làm hai loại là: việc làm đem sự an vui và việc làm đem tai hại.

Việc làm đem an vui đến có ba trường hợp là:

1. Anākalam: làm cho đến kết quả, không bỏ dở giữa chừng.

2. Dalaham: làm đầy đủ, không thiếu sót.

3. Sucaritam: làm trong sạch, nghĩa là việc làm không tội lỗi.

Sở dĩ người ta làm việc không tới nơi tới chốn, là vì người ấy không bền chí, hay ngã lòng trước nghịch cảnh, thiếu cương quyết để làm cho đến cùng.

Đây là trạng thái của người làm việc hay bỏ dở công việc:

1. Kalatikaman: thường làm mất thì giờ. Như chuyện lẽ ra làm xong trong một giờ, mà người ấy phải làm tới hai ba giờ.

2. Appa atirupakarana: việc làm việc không xứng với số tiền được, nghĩa là làm việc ít mà lương bổng nhiều.

3. Akarana: không quan tâm đến việc làm.

4. Sithilakarana: làm một cách miễn cưỡng.

5. Sakaladivasabhagam supitva: ngủ cả ngày.

6. Rattimhi te katum na uttahati: ban đêm cũng không làm việc.

7. Niccakalam suramatto: say rượu cả ngày.

8. Itthi adisu sondo: chạy theo phụ nữ.

9. Alaso: lười biếng, ngủ nướng và hay ngủ dậy trưa.

10. Leso: đổ thừa rằng lạnh quá, nóng quá v.v…

Theo Phật dạy, người muốn làm việc cho đến nơi đến chốn, thì phải có bốn pháp gọi là Iddhipāda, bốn pháp như ý. Đức Thế Tôn đắc được quả vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng do nơi bốn pháp ấy.

Bốn pháp như ý là:

1. Chandiddhipda: dục như ý (sự vui lòng thỏa thích làm).

2. Viriyiddhipda: tinh tấn như ý (sự cương quyết làm việc).

3. Cittiddhipda: niệm như ý (sự cố để tâm làm việc).

4. Vimamsiddhipda: tư duy như ý (sự suy nghĩ hiểu cách làm).

Phàm người muốn làm việc gì, trước nhất phải có chương trình, mà quan trọng nhất là trước hết phải có vốn là tiền, riêng theo Phật dạy thì vốn ấy là tâm cương quyết, thích làm việc mà mình định làm.

Đức Phật dạy trước nhất phải có tâm cương quyết làm việc, vì vậy trong bốn pháp như ý, đều có nói đến tâm và tâm là động lực chánh yếu chủ động.

– Dục như ý: theo tâm lý thì điều gì mà tâm đã yêu hay thích, thì tâm chăm chú vào điều ấy, rồi khiến con người cố gắng làm xong việc.

Tất cả mọi việc từ nhỏ đến lớn, đều phải do nơi hai nguyên tắc theo trật tự sau đây:

a) Để tâm đúng vào việc làm và yêu việc làm.

b) Bắt buộc tâm phải làm việc.

Phải có đủ hai nguyên tắc theo trật tự này, thì chắc chắn việc làm sẽ được kết quả mỹ mãn, bằng ngược lại, thì việc làm rất khó được kết quả, mặc dù là ít. Vì vậy Đức Phật dạy trước hết phải có tâm thích nghề trong việc làm của mình tức là dục như ý.

– Tinh tấn như ý: (tôi xin tạm dịch là tâm can đảm) pháp tinh tấn là pháp mà Đức Phật thuyết rất nhiều chỗ trong các số pháp. Phật tử nghe đến tinh tấn thì hiểu rằng đó là sự siêng năng làm việc, hay cương quyết, hoặc can đảm làm việc. Người mà có tinh tấn làm việc, thì làm việc gì cũng kết quả mỹ mãn. Tinh tấn không có nghĩa là đem hết sức mình mà làm việc nhất thời, mà có nghĩa là ta làm tùy theo sức ta, nhưng không khi nào bỏ gián đoạn, không chịu thua hoàn cảnh, không chịu thua sự thất bại. Tinh tấn có nghĩa là làm từ từ, liên tục, không gián đoạn, không miễn cưỡng. Hơn nữa, không phải là người tinh tấn làm việc hoài không nghỉ, nhưng nghỉ theo trường hợp, đừng để sức khỏe kém dần đi đến kiệt quệ.

– Niệm như ý: (tôi xin dịch là chú tâm đến công việc làm) nghĩa là bao giờ tâm cũng nghĩ đến việc làm của mình đang làm, chú ý đến việc làm. Tâm luôn luôn suy nghĩ và nghiên cứu việc làm của mình không hề xao lãng. Người làm bất cứ công việc gì, nhưng thiếu một pháp nào kể trên cũng không được, vì nếu thiếu là cầm chắc thất bại.

– Tư duy như ý: là dùng trí tuệ để quan sát lại việc làm của mình. Nếu thiếu trí tuệ kiểm soát tâm thì không khác nào xe chạy trong đêm tối mà không đèn.

Vậy chúng ta muốn làm xong công chuyện không bị thất bại và bỏ dở thì phải có bốn pháp trên. Đó là nói về phương diện ở đời, còn về đạo đức thì phàm người tu Phật tại gia hay bậc xuất gia, khi làm một việc gì cũng phải có đủ bốn pháp như ý ấy, chẳng hạn như bố thí, trì giới, hay tham thiền v.v…

Tôi xin nhắc tích của vị Tỳ khưu học tham thiền:

Thầy là người rất tinh tấn hành đạo có tiếng trong thời kỳ nọ. Nhưng khi thầy ngồi lại tham thiền, thì thầy ngủ gục, không thể nào làm cho tâm được cái thấp nhất là hỷ lạc. Mỗi lần thầy buồn ngủ, thầy lấy cỏ quấn lại một nùi đội lên đầu, rồi lội xuống trầm mình dưới sông Gangā và tự bảo lấy mình rằng: “Ta đã thả trôi sự buồn ngủ rồi”. Vị ấy hành như thế đến mười hai năm mới đắc quả A La Hán. Như thế ta mới thấy rõ vị Đại đức ấy ngài yêu việc làm của ngài, ngài rất cương quyết tinh tấn làm cho xong việc, không chịu thua hoàn cảnh, và ngài có trí tuệ quan sát biết yếu điểm của mình là hay buồn ngủ và tìm cách khử trừ nó cho đến viên mãn.

Còn Đức Thế Tôn kiếp chót là Thái tử Sĩ Đạt Ta, sau khi bỏ ngai vàng xuất gia sáu năm khổ hạnh chỉ còn da bọc xương, Ngài cũng thối chí ngã lòng. Dưới cội bồ đề, Ngài phát nguyện rằng: “Nếu ta không thành đạo, dù xương tan thịt nát ta cũng không rời khỏi nơi này”. Rồi nhờ tấm lòng yêu đạo, cương quyết, kiên nhẫn, Ngài tìm thấy con đường giải thoát là đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Nói tóm lại khi người tại gia cư sĩ muốn làm việc gì từ nhỏ đến lớn mà hành theo bốn pháp như ý thì ngân quỹ gia đình được dồi dào sung túc, rồi nền kinh tế của nước nhà cũng cường thịnh, và được bốn điều an vui:

a) An vui vì có của.

b) An vui vì phương tiện tiêu dùng và có nhiều tiền.

c) An vui vì không bị nợ.

d) An vui vì việc làm không tội lỗi.

Ngoài ra còn những điều lợi lộc sau đây:

1. Người trong gia đình và quyến thuộc cùng người trong xã hội có thể nhờ đuợc.

2. Có dự trữ được việc lành làm vật thực về ngày vị lai

3. Là tự bảo vệ lấy mình.

4. Sẽ được sanh vào cõi trời.

5. Nếu duyên lành đầy đủ, thì có thể đắc được đạo quả.

6. Nếu chưa đắc được đạo quả trong kiếp này, thì việc làm ấy là duyên lành sẽ đưa người được đắc quả về vị lai.

7. Không dễ duôi.

8. Được các bậc trí tuệ thường ngợi khen.

9. Không xa ba điều lợi ích.

10. Được gọi là thiện nhân là vì có sự hạnh phúc bên mình.

Pháp sư Maha Thongkham (Bình Anson hiệu đính, 2006)

http://www.budsas.org/uni/u-38hanhphuc/04.htm

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.