Giảng Giải 38 Pháp Hạnh Phúc – Chương 5 & 6

HẠNH PHÚC XVI

Dhammacariyā
Hành theo pháp

Dhammacariyā nghĩa là hành theo pháp. Người hành theo pháp là người được sự hạnh phúc, làm cho người tiến hóa trên đường đời cũng như trên đường đạo. Chúng ta nên hành cách nào gọi là hành theo pháp?

Đây xin chia ra làm ba phần:

1. Pháp là gì?

2. Phương pháp hành theo pháp?

3. Khi hành theo pháp được những hạnh phúc gì?

Trong Hạnh phúc thứ XVI này, chỗ trọng yếu là pháp và phương pháp hành theo pháp. trước hết chúng ta nên biết pháp là gì đã? Nếu hỏi thế, thật khó đáp cho đúng trong mấy câu ngắn. Nhưng có thể nói rằng: Pháp là thiện ác, không thiện, không ác, là sắc thinh, hương vị xúc, sắc, thọ v.v… Có người lại nói pháp là vật vô hình khó hiểu, cần phải hiểu bằng trí tuệ.

Tôi xin giải tóm tắt:

1. Sự hành động đúng gọi là lành hay thiện, Đức Phật gọi là thiện pháp.

2. Sự làm hại kẻ khác, làm cho người hay thú đau khổ, gọi là làm ác, Đức Phật gọi là ác pháp.

Giảng tóm tắt như vậy thì có vị muốn hỏi: Nếu pháp mà giải dễ hiểu như thế, thì cần gì Đức Thế Tôn phải dạy tám muôn bốn ngàn pháp môn?

Hỏi như thế thật là chí lý, nhưng tôi lược giải như trên là tôi muốn nói cái ý nghĩa cốt yếu của pháp, chớ chưa phải là pháp môn.

Đức Thế Tôn có mười hồng danh, mà chư thiên, Phạm thiên ca tụng. Trong mười hồng danh ấy có hai hồng danh có ý nghĩa từa tựa nhau là: Buddho – Phật, và Bhagavā – Thế Tôn.

Phật có nghĩa là hiểu thông các pháp và phân biệt được ác hay thiện và người hành theo pháp nào được an vui, pháp nào đưa khổ đến. Còn Thế Tôn có nghĩa là chia ý, vì tiếng Phạn Bhagavā nghĩa là chia từng phần. Đức Thế Tôn chia pháp môn ra từng phần để dễ hóa độ chúng sanh, vì chúng sanh có cơ duyên không giống nhau.

Còn một vấn đề rất khó là sự chọn lấy một con đường chân chánh để hành theo và chọn lấy pháp nào làm tiêu chuẩn để hành theo?

Muốn quí vị dễ hiểu, tôi xin đem pháp tiêu chuẩn mà Đức Phật đã dạy để quí vị quan sát hành theo thiện pháp.

Đức Thế Tôn có dạy ba điều để người làm tiêu chuẩn, như cây thước để đo biết pháp nào ác, pháp nào thiện. Ba pháp ấy gọi là Adhipatī, xin tạm dịch là chủ quyền:

1. Attādhipatayya: theo ý mình.

2. Lokadhipatayya: theo ý người đời.

3. Dhammādhipatayya: theo pháp.

Ba điều Phật dạy trên có thể đem so sánh với những điều thường có ở đời. Theo ý mình, có thể sánh với chính sách độc đoán chuyên chế. Theo ý người đời, có thể sánh với chính sách dân chủ. Còn theo pháp, thì ở ngoài hai chính sách trên, vì theo pháp là nguyên nhân xuất thế gian, nghĩa là giải thoát khỏi các sự ràng buộc trong đời, tức là phiền não. Người hành theo pháp, thì không còn độc tài hay dân chủ.

Tôi xin giải ba điều ấy

1. Theo ý mình: Người theo ý của chính mình là người có tánh độc tài, không bao giờ chịu nghe lời ai hết, thích sao làm vậy, cố chấp ý kiến của mình không chịu nghe lời ai khuyên bảo. Những người làm theo ý mình một cách độc tài như vậy thường hay đi tới chỗ tai hại, và ít nhất là cũng sai lầm.

Nếu trong xã hội mỗi người theo ý của riêng mình, thì xã hội không còn là một xã hội thuần túy an vui, vì quyền lợi của cá nhân này, sẽ phản trái với quyền lợi của cá nhân khác và sinh ra xung đột vô cùng vô tận. Tinh thần độc đoán của người này, không dung nạp được tinh thần độc đoán của người kia và tự do cá nhân không có luật lệ kiềm hãm sẽ gây hỗn loạn.

Người độc đoán không làm gì nên việc, chỉ làm hại cho mình và người bạn mình thôi. Gia đình nào có người chồng, hay cha, hoặc con vợ như thế, thật khổ cho gia đình ấy.

2. Làm theo ý người đời: Làm theo ý người đời, có ít khi lợi lạc , mà nhiều khi tai hại. Lợi là khi nào ý của người đời hiệp theo lẽ phải, thiên về đạo đức. Bằng trái lại thì tai hại cho mình và cho cả người đời. Theo ý người một cách mù quáng thì chắc chắn tai hại, theo ý người đời một cách sáng suốt sao cho dung hòa được quyền lợi chung, thì mới lợi lạc. Chế độ dân chủ chân chánh là chế độ xây dựng theo ý kiến của người đời, mưu đồ lợi lạc cho quảng đại quần chúng.

Đức Phật thiên về ý kiến phần đông, nên Ngài dạy chư Tăng nên hội họp lại làm Tăng sự và hội họp lại để giải quyết những chuyện gì xảy ra trong tăng chúng, mà một số ít người không giải quyết xong.

Đức Phật dạy: Nesāsabhā na santisanto, nghĩa là nơi hội họp nào không có bậc tri thức, đều trở thành vô dụng. Chung qui lại, sự lấy theo ý kiến phần đông cũng tùy trường hợp của nhóm người cho ý kiến, ngoài ra, ta còn cần phải có trí tuệ để phán đoán.

3. Làm theo pháp: Trong đoạn trước tôi đã nói, pháp là một cái cân hay là sự công bình, chỉ biết là lẽ phải, và pháp là nguyên nhân của chánh lý. Xét về mặt đời, theo pháp có thể nói là theo lẽ phải, theo chánh nghĩa, theo luật công bình.

Về phương diện Phật giáo, theo pháp là sửa chữa bản thân mình cho khác hơn, thường là thọ trì ngũ giới hay bát quan trai giới, đi chùa nghe pháp, tụng kinh niệm Phật, và nếu có thể, xuất gia làm sa di hay Tỳ khưu để giải thoát khỏi vòng luân hồi.

Hành theo Phật pháp có thể chia ra làm 3 hạng:

1. Pathamacariyā: hành theo bậc sơ cấp, là thọ ngũ giới, hay bát quan trai giới, giữ thập thiện, lễ Phật mỗi ngày, vào chùa học pháp Phật.

2. Majjhimacariyā: hành theo bậc trung, là học tham thiền theo phương pháp Chỉ quán.

3. Uttmacariyā: hành theo bậc thượng, là học tham thiền theo phương pháp Minh sát tuệ.

Hành bậc sơ cấp là dạy thân:

a) Thân không sát sanh. Giới sát sanh của Phật dạy là không giết con vật nào có sự sống, bỏ cả khí giới trong tay, nghĩa là không bao giờ trên tay cầm khí giới, người phải có hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi, như người kinh sợ rắn độc vậy; ngoài ra còn hết lòng từ ái giúp đỡ nhân loại;

b) Không trộm cắp, mặc dù cây kim, ngọn cỏ. Đây là nhằm ngăn chặn lòng tham lam.

c) Không tà dâm, xa hai mươi hạng phụ nữ như đã có giải trong Hạnh phúc IX. Đây là nhân chặn đứng lòng tham dục.

Hành bậc sơ cấp về khẩu:

a) Không nói dối. Người không nói dối, dù đứng trong trường hợp nào cũng giữ được phong độ của người chân thật, thà chết chớ không bao giờ nói dối, mặc dù người có cho gì cũng không màng.

b) Không nói đâm thọc, nghĩa là không thiên về một bên nào, không đem chuyện mình đã nghe mà thuật lại cho người thứ nhì nghe.

c) Không nói lời hung ác, nghĩa là một tiếng gì xấu cũng không nói, mặc dù có một nhóm người thích nói.

d) Không nói lời vô ích, nghĩa là lời nói nào không đem lợi ích lại cho mình và người bên mình.

Về sự hành động:

a) Không tham lam, nghĩa là không bao giờ nghĩ tới tài sản của người khác cho là đẹp là quí và muốn đem về cho mình. Người tu hành chân chánh, mặc dù sự mơ ước, cũng gắng đánh đuổi ra khỏi lòng mình.

b) Không làm hại kẻ khác, nghĩa là không cột oan trái oán thù, mặc dù sự nghĩ đến oan trái oán thù cũng gắng diệt bỏ.

c) Không có tà kiến nghĩa là không nghĩ sai lầm, như nghĩ về quả của nghiệp thiện hay ác cũng không có, không có thiên đàng, địa ngục v.v…

Hành theo pháp có được những hạnh phúc:

1. Đại phước .

2. Không dễ duôi.

3. Hành theo chánh pháp.

4. Làm cho Phật giáo được thịnh hành.

5. Được an vui trong đời này và vị lai.

6. Không bị kinh sợ và không có oan trái.

7. Không làm cho chúng sanh kinh sợ.

8. Đi theo con đường của các bậc trí thức.

9. Xa kẻ thù bên ngoài là người ác, và kẻ thù bên trong là phiền não.

10. Tự tạo ra thiên đàng và Niết Bàn cho mình.

Đây xin nhắc lại một tích để quí vị dễ nhận thức:

Khi Đại đức Millaka chưa xuất gia, ngài là một người thợ săn rất giỏi, mỗi ngày giết rất nhiều thú. Ngày nọ ăn cơm xong không có nước uống, ngài mới đi tới một tư thất của một vị đại đức ở trong rừng tìm nước uống. Khi dở nấp hủ nước ra, không thấy có nước, ông ta nổi giận nói: “Thầy Tỳ khưu ăn cơm của tín đồ xong, lo tìm chỗ thanh tịnh ngủ, chỉ có nước để uống mà cũng không có một nhiểu để làm thuốc, thật là tệ”.

Vị đại đức nghe vậy lấy làm lạ, nghĩ rằng: “Ta đã múc nước đầy rồi, tại sao người này lại nói không có!” Ngài mới đến chỗ hủ nước xem coi, thấy nước vẫn còn đầy. Ngài mới múc cho ông thợ săn ấy một gáo. Ông ta uống cả thảy 32 gáo. Khi uống xong ông ta mới nghĩ: “Kiếp sau của ta sẽ ra sao kìa? Ta làm nhiều tội lỗi đến đổi hủ nước đầy mà ta không trông thấy”.

Ông chán vì tội của mình đã làm, nên xin xuất gia. Sau khi xuất gia xong, ông cố hết sức hành đạo, nhưng không bao giờ tâm ông trụ lại. Vì khi ông tham thiền, thì trông thấy những con thú bị ông giết bằng cách này, cách nọ, thật là ghê. Ông cảm thấy ông không thể hành đạo được, mà ở ăn của tín đồ càng thêm tội, nên ông xin với thầy tế độ cho ông hoàn tục.

Thầy tế độ bèn dạy: “Được, nhưng ngươi phải đốn cây tươi chất cho thật nhiều lại cho ta, rồi ngươi đốt cho cháy hết đi”. Ông gắng làm nhưng không thể nào đốt cây tươi cháy được.

Thầy tế độ thấy vậy mới nói: “Ngươi để đó cho ta.”

Rồi ngài dùng thần thông lấy một đốm lửa bằng con đom đóm để vào đống cây tươi thật to ấy, đống cây ấy cháy trong nháy mắt, chỉ còn tro thôi.

Khi ông ta biết đó là lửa địa ngục, rất lấy làm kinh sợ mới hỏi thầy rằng: “Bạch Thầy, đạo Phật có thể đưa con người khỏi khổ được chăng? Nếu có thật, đệ tử nguyện hết lòng tinh tấn tu hành để giải thoát”.

Từ ngày ấy ông gắng hết sức tu hành không hề xao lãng. Khi nào tham thiền mà buồn ngủ thì ông lấy khăn nhún nước bịt đầu, còn chân thì ngâm trong nước.

Ngày nọ, ông đổ nước vào lu xong, còn cái nồi nước, ông để trên vế; những giọt nước còn dư nhiễu xuống. Ông thầy tế độ thấy vậy mới dạy rằng: “Quyền chức thường đến cho người siêng năng, có trí nhớ, việc làm trong sạch, suy nghĩ trước mới hành động sau, người hành theo chánh pháp và không dễ duôi”.

Ông nghe câu ấy, liền suy nghĩ rằng: “Đã gọi là người siêng năng thì như ta đây là người có trí nhớ, việc làm chân chánh, suy nghĩ trước thực hành sau, đã thu thúc ở trong chánh pháp, không dễ duôi”. Ông nghĩ thấy sự tu hành của ông trong sạch, giới hạnh thanh cao, ông dùng trí tuệ quan sát thân này là vô thường, khổ não và vô ngã, đắc được quả A Na Hàm.

Tích này cho quí vị thấy mặc dù người đã làm tội, sau biết ăn năn, lo tu hành tinh tấn, thì cũng đắc được đạo quả, trừ phi người phạm vào ngũ nghịch đại tội.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.