Giảng Giải 38 Pháp Hạnh Phúc – Chương 5 & 6

HẠNH PHÚC XVII

Ñātakānañca saṅgaho
Giúp đỡ quyến thuộc

Ñāti nghĩa là quyến thuộc. Hạnh phúc này xin chia ra 3 phần:

– Quyến thuộc là gì?

– Sự giúp đỡ quyến thuộc.

– Hạnh phúc sanh lên do sự giúp đỡ quyến thuộc.

Quyến thuộc là gì? Cha mẹ, vợ, con, là ba hạng người thân nhau nhất và gần nhau hơn hết, không gọi là quyến thuộc, không thể gọi là bà con được, vì có giới hạn riêng.

Quyến thuộc có thể nói có hai hạng:

– Quyến thuộc là những người cùng một dòng huyết thống.

– Quyến thuộc là những người cùng một tôn giáo.

Đức Phật đã dạy sự tiếp độ quyến thuộc là sự hạnh phúc. Nhưng ta nên biết phương pháp giúp đỡ, chẳng nên giúp đỡ mà thiếu suy nghĩ, hay vì lòng tự ái của mình. Đức Phật dạy giúp đỡ quyến thuộc, những phải biết rõ điều lợi hại cho mình và cho quyến thuộc mình, chớ đừng làm một cách thiếu suy nghĩ.

Đức Phật dạy thực hành ba điều:

– Lokatthacaruya: giúp đỡ người đời.

– Ñātatthacariya: giúp đỡ quyến thuộc.

– Buddhatthacariya: giúp đỡ Phật tử.

Đức Thế Tôn giúp người đời bằng cách dạy người đời phải giúp đỡ nhau, thương yêu nhau và đừng làm điều gì oan trái oán thù mà hại nhau, hãy xem nhau như quyến thuộc, không phân biệt giai cấp và chủng tộc.

Ngài giúp đỡ Phật tử bằng cách chỉ dạy Phật tử phải hành đúng theo con đường đi đến nơi giải thoát. Lắm khi Ngài đến thăm các vị Tỳ khưu bệnh và chính tay Ngài tắm rửa săn sóc, như Ngài săn sóc vị Đại đức tên Girinanda; Ngài đi hoá độ những người hữu duyên với ngài như tướng cướp hung tàn nhất trong thời đó, là Vô Não. Tướng cướp này xách gươm rượt Phật cả 3 do tuần, mỗi do tuần 16 cây số ngàn thời bấy giờ, được Ngài độ cho trở nên một vị A La Hán.

Còn đối với quyến thuộc, sau khi xuất gia, Ngài không còn lưu luyến và cũng chẳng màng gì đến sự giúp đỡ của quyến thuộc, vì Ngài đã thoát vòng của thế tục. Nhưng Ngài cũng không bỏ quyến thuộc, khi biết quyến thuộc có hại, như khi Ngài biết rằng hai họ Koliya là họ mẹ và Thích Ca là họ cha, vì giành lấy dòng nước mà đem binh ra đánh nhau, Ngài ngự đến thuyết pháp, khuyên hai họ bỏ oán giận. Cả hai bên vâng lời Ngài không đánh giết nhau. Lần thứ nhì Ngài biết rằng Thái tử Viduapha sẽ đem binh về tiêu diệt dòng Thích Ca, Ngài mới ngự đi đón Thái tử ba lần, đến lần thứ tư Ngài không đón cản nữa vì Ngài biết rằng oan trái của hai bên rất nặng, cái nghiệp đã đến, Ngài không dự vào.

Nếu có người hỏi: Đã nói rằng Phật là Đấng thông hiểu cả mọi việc, vậy Ngài không biết rằng không thể ngăn được sao, mà Ngài phải cất công đi tới 3 lần đón Thái tử?

Đức Phật biết chắc là không thể cản được Thái tử, nhưng Ngài phải đi như vậy để chúng sanh sau này không nói rằng Đức Phật dạy người tiếp độ quyến thuộc, mà chính Ngài không tiếp độ hay ngăn ngừa tai họa cho quyến thuộc.

Khi ta nghĩ kỹ lại thì sự giúp đỡ quyến thuộc của Ngài trong trường hợp này không có hại gì cho Ngài và cho quyến thuộc. Ngài giúp quyến thuộc là một chuyện, và cái quấy, cái nghiệp của quyến thuộc là chuyện khác.

Theo Phật pháp, có mấy phương pháp giúp đỡ quyến thuộc rất hoàn toàn như:

– Dāna: giúp đỡ vật liệu như tiền của, cơm nước, y phục, thuốc men, nhà cửa, không để cho quyến thuộc phải cực khổ vì sự thiếu thốn.

– Piyavācā: lời nói êm dịu, ý nói khi nào mình giàu có, có quyền chức, đối với quyến thuộc, một mực thương yêu, không vì lẽ có quyền chức giàu có mà khinh khi quyến thuộc, nói lời bất nhã.

– Atthacariyā: Gắng giúp đỡ quyến thuộc được nhiều lợi ích hợp pháp. Khi quyến thuộc gặp tai nạn, như có tang, ta nên giúp tùy theo sức mình, hoặc quyến thuộc, mình có chuyện gì khác, mà khi mình giúp không hại cho mình và được an vui cho quyến thuộc.

– Samānatta: hòa mình theo quyến thuộc, nghĩa là kính trọng bậc trưởng thượng, thương yêu người nhỏ, nể nang người ngang hàng với mình, không hống hách hay khinh khi quyến thuộc.

Đức Phật dạy có hai cách giúp đỡ quyến thuộc:

– Amisasaṅgaha: giúp đỡ tài chánh.

– Dhammāsaṅgaha: giúp đỡ bằng cách gắng lo giúp đỡ quyến thuộc bỏ dữ về lành, tu hành theo chánh pháp để mau giải thoát.

Sự giúp đỡ quyến thuộc những điều hạnh phúc như:

1. Đại phước cho mình.

2. Quyến thuộc nhớ đến mình luôn luôn.

3. Càng ngày càng gần với quyến thuộc.

4. Quyến thuộc kính mến.

5. Quyến thuộc càng ngày càng đoàn kết chặt chẽ.

6. Sự thương yêu lẫn nhau càng ngày càng gia tăng.

7. Đó là pháp cao thượng trong Phật pháp.

8. Đó là việc làm của các bậc trí thức.

9. Đó là gương mẫu cho kẻ hậu sanh.

10. Là con đường đi của các bậc trí thức.

11. Là con đường đi đến thiên đàng.

12. Không còn có oan trái và kinh sợ.

13. Lợi ích cho mình trong kiếp này và vị lai.

14. Là duyên đưa đi đến an lạc.

15. Cũng là một nguyên nhân làm cho người được Niết Bàn.

Tích xưa:

Thời quá khứ, Đức Bồ tát sanh làm chó chúa đàn ở ven rừng gần thành Barānasī. Ngày nọ, đức vua Barānasī ngự xem vườn thượng uyển về. Ngài ngự đi bằng xe ngựa: tối về, người phu xe mới đem xe để trước sân. Đêm ấy trời mưa to ướt cả đồ bắc kế ngựa. Những con chó trong cung mới cắn đứt và ăn hết đồ ấy. Sáng ngày tên phu xe thấy vậy lấy làm kinh sợ, mới vào tâu với vua rằng: “Những con chó ngoài thành, lén vào cắn ăn hết yên cương của xe”. Đức vua cả giận, mới truyền bắt hết chó ngoài thành và giết hết.

Chó chúa thấy quyến thuộc mình bị giết một cách tàn ác và đã chết rất nhiều, chó chúa mới nghĩ rằng: “Ta phải làm sao để cứu giúp quyến thuộc thoát khỏi tai nạn này?”. Rồi chó chúa mới phát nguyện pháp Ba la mật, cầu xin phước báo để vượt qua vòng của quân binh. Phát nguyện xong chó chúa liền chạy một mạch đến trước mặt đức vua, khi đức vua trông thấy chó chúa, liền sanh thiện cảm, nên không ai động chó cả. Đức vua mới phán hỏi tại sao nó lại chạy vào đền vua.

Chó chúa đáp: “Tâu Đại vương, có phải Đại vương ra lịnh tru diệt hết loài chó không?”

Đức vua đáp: “Phải, ta có ra lịnh ấy, vì tội của chúng dám vào hoàng cung cắn ăn đồ trang điểm xa giá của ta. Nếu chó không phá hại, thì ta không truyền lịnh giết; như chó trong cung ta, ta có ra lịnh giết đâu?”

Chó chúa tâu: “Tâu Đại vương, Đại vương có biết rằng chó nào cắn và ăn đồ ấy chăng?”

Đức vua đáp: “Không.” Chó chúa nói: “Tâu Đại vương, khi ngài chưa hiểu rõ mà ra lịnh như thế, là chuyện bất công. Lẽ công nhiên nhà vua phải ở trong mười pháp và còn phải ở trong bốn pháp tây vị nữa. Bốn pháp tây vị là: vì thương, vì giận, vì si mê, vì sợ. Người mà còn ở trong 4 pháp ấy, chắc chắn khi chết phải bị đọa vào ác đạo”. Sau khi nghe những lời ấy, đức vua lấy làm hoan hỉ trong sạch với chó chúa, nên phán hỏi rằng: “Này vị trí thức, người có biết chó nào cắn đồ ấy không?”

“Tâu Đại vương, sự thật chó ngoài thành không thể vào trong cung nội để ăn đồ ấy. Nếu Hoàng thượng còn nghi ngờ, xin lấy mở và đâm cỏ may trộn vào cho chó trong cung ăn thì nó sẽ mửa ra lập tức đồ bằng da ấy”.

Đức vua lập tức truyền cho thị thần làm y như lời. Thì rõ ra chó trong cung nội ăn những da ấy. Đức vua phát tâm trong sạch và mời chó ngồi lên trên ghế và cúng dường như một nhà sư. Chó chúa mới thuyết rằng: “Tâu Đại vương, xin Đại vương hãy hành theo thập thiện và phụng dưỡng mẹ cha, làm như thế mới gọi là cao thượng”.

Sau khi ấy chó chúa mới khuyến khích đức vua thọ trì ngũ giới, xong xuôi, chó chúa về rừng, nhà vua truyền ân xá tội cho chó. Và từ ngày ấy đức vua lo hành theo thập thiện.

Tích này ngụ ý khuyên ta nên giúp đỡ quyến thuộc lúc lâm nguy, nên hy sinh và bất cứ giờ phút nào ta có thể giúp được, nên giúp liền. Đó là con đường đi của các bậc trí thức.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.