Giảng Giải 38 Pháp Hạnh Phúc – Chương 5 & 6

HẠNH PHÚC XVIII

Anavijjāni kammāni
Nết hạnh làm những việc vô tội

Khả năng của người làm việc có thể chia ra làm hai phần là:

1. Người làm được việc.

2. Người làm việc được kết quả mỹ mãn.

Pháp Hạnh phúc thứ X dạy làm việc không nên bỏ dỡ, nghĩa là làm việc gì cũng phải cho đến chốn đến nơi. Hạnh phúc thứ XVIII này cũng dạy về làm việc, nhưng làm việc vô tội.

Theo quan niệm thông thường, thì người nào làm việc được việc gọi là giỏi. Người ta phê bình như vậy, mà không chịu xét đến tính cách và hậu quả của việc làm. Chính tính cách và hậu quả của việc làm mới bảo đảm giá trị của việc làm, nhất là xét theo khía cạnh của Phật giáo, chiếu theo pháp Hạnh phúc XVIII.

Trong Hạnh phúc XVIII này Đức Phật dạy: Làm việc chân chánh là làm việc hoàn toàn không tạo tội. Việc làm không tạo tội (vô tội) nơi đây chia ra làm hai phần: việc làm và người làm. Ở đây, việc làm là do thân, do khẩu, và do ý.

Việc làm do thân là việc làm nặng nề. Những việc ấy phải là việc vô tội, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm.

Việc làm do khẩu là dạy học, hay giảng đạo cho người nghe, tuyệt đối không cho phạm vào giới nói dối.

Việc làm do ý là suy nghĩ điều thiện như học tham thiền và đánh đuổi ý ác như cột oan trái oán thù v.v…

Quí vị đạo hữu có nhiều tuổi, không còn làm việc nặng nề và không dạy học hay diễn thuyết về Phật pháp, quý vị phải làm những gì? Thiết tưởng quý vị nên học tham thiền và quan sát tâm, không cho tham luyến việc đời để đắp con đường vị lai.

Tuy nhiên, việc làm bằng tâm như thế chẳng phải riêng để cho quý vị lớn tuổi mà cho tất cả các hạng người trong thế gian, phương pháp này là phương pháp làm cho tâm mình được yên tịnh và đi theo chánh đạo.

Việc làm thế nào, gọi là việc làm vô tội? Việc làm vô tội là việc làm theo đúng lời Phật dạy. Theo quan niệm ở đời thì việc làm có tội là việc gì chính phủ đã ra điều luật ngăn cấm, mà ta còn phạm vào là tội. Có vị học theo tạng Luận lại dạy rằng, điều nào ta làm hợp pháp như là bố thí trì giới hay tham thiền, mà lòng mình còn mong mỏi sanh trong vòng tam giới gọi là Vattagāminikusala (phước hữu lậu), nghĩa là phước còn dẫn chúng sanh luân hồi nữa, điều làm này mặc dù là thiện, nhưng vì còn muốn sanh trong tam giới, vì còn trầm luân, là việc làm có tội.

Có vị lại dạy: Việc làm vô tội phải hành theo minh sát tuệ.

Hai định nghĩa trên đây về giáo lý rất đúng, nhưng rất tiếc, vì thật là khó, không đem ra thực hành được. Đây tôi xin ví dụ: Người đi đường buổi trưa nóng bức, khát nước, múc nước vũng bên đường uống. Nếu y múc phớt trên, thì bị rong bèo trên mặt nước, còn múc sâu quá thì lại nhằm bùn, bề nào cũng uống không được.

Muốn có nước uống được thì y phải lấy tay khỏa rong rêu đi và múc nhè nhẹ. Người học pháp này hành theo pháp cũng vậy, nếu hiểu một cách nông cạn, thì không được chu đáo, làm sao hành được. Còn bằng nghĩ cao sâu quá, cũng khó mà hành theo, vì lắm khi pháp ấy không phù hợp với trường hợp của mình đang hành. Vì vậy pháp sư cũng như người hành đạo đều phải biết pháp nào thích hợp với hoàn cảnh, mới có thể hành theo được.

Phạn ngữ Vajja nghĩa là tội, nhưng tội đây không phải là tội đối với chính phủ khiến bị phạt, bị tù hay bị cách chức, mà tiếng Vajja chỉ có nghĩa là bị rầy, bị chỉ trích, bị phê bình. Vì quan niệm khác biệt như vậy, nên chư Đại đức thường bị người đời chỉ trích, bởi người đời thấy chuyện nào đó là chuyện tội mà chư Đại đức không thấy phải tội, không sái, tội ấy gọi là Lokavajja, tội đối với đời. Ví dụ xưa kia, không có xe hơi nên không có luật cấm lái xe hơi, mà vị Đại đức nào lái xe ngày nay, chắc chắn có người đời chỉ trích, vì người ta chấp rằng chư Đại đức là bậc không còn có gì hơn là ba lá y che thân và bình bát để xin ăn thôi.

Đức Phật không dạy riêng cho người tại gia hay xuất gia mà dạy chung cho hàng Phật tử nên thận trọng làm việc đừng để bị phê bình hay chỉ trích (Vajjakamma). Sự tránh khỏi phê bình hay chỉ trích, chính là làm việc vô tội vậy.

Việc làm vô tội hay là khỏi bị phê bình chỉ trích theo Phật dạy là việc làm trong sạch đúng theo chánh pháp, không làm hại mình mà không làm hại kẻ khác, hay lợi mình mà hại kẻ khác, hoặc hại mình mà lợi kẻ khác, không có oan trái, oán thù, ganh tỵ.

Việc làm vô tội theo đời là việc làm của người đời, như làm ruộng, làm vườn, mua bán, làm thơ, và làm công v.v… nhưng những việc ấy không phạm luật quốc gia cũng không phạm luật đạo, như thập ác … Còn việc làm vô tội theo lý đạo, là việc làm lành lánh dữ để tầm an vui cho vị lai, để tạo những phước báo như:

– Phước để sanh vào cõi dục giới, nghĩa là phước thiện này còn lẫn phiền não, nên sau khi quá vãng lại sanh vào sáu cõi trời dục giới; phước này do sự bố thí trì giới.

– Phước được sanh vào cõi sắc, nghĩa là phước này sanh vào cõi Phạm thiên hữu sắc, nhưng không phân biệt nam nữ nên không có vợ con như cõi dục, người được sanh vào cõi này là nhờ đắc được sơ thiền đến tứ thiền.

– Phước sanh vào cõi vô sắc, nghĩa là người đắc được thiền vô sắc, nên được sanh vào cõi vô sắc; cõi này không có thân xác, nhưng tâm vẫn còn; cõi này hưởng thọ sự an lạc của thiền định.

– Phước sanh vào thánh vức, nghĩa là người đã diệt được tất cả phiền não trong tâm sau khi quá vãng, được lên Niết Bàn.

Việc làm vô tội theo Phật pháp gồm 8 điều, gọi là bát quan trai giới. Bát quan trai giới gọi là việc làm vô tội. Bát quan trai giới làm cho tâm người sạch phiền não bên trong và đánh đuổi ngừa đón phiền não bên ngoài, không cho thâm nhập vào.

Tám điều ấy là:

1. Không sát sanh.

2. Không trộm cướp.

3. Không hành dâm.

4. Không nói dối.

5. Không uống rượu và các chất say.

6. Không ăn sái giờ.

7. Không múa hát, xem múa hát, trang điểm đeo vàng vòng, giồi phấn thoa son.

8. Không nằm ngồi nơi cao sang xinh đẹp.

Trong tám điều, từ điều một đến điều năm là giống như ngũ giới, chỉ khác ở chỗ hành dâm và tà dâm, giới tà dâm không cho tư tình với vợ con kẻ khác, còn giới hành dâm thì dạy trong ngày bát quan trai giới mặc dù vợ nhà cũng không được gần.

Về giới thứ 6, theo nguyên văn của Phạn ngữ, không ăn sái giờ là khi bóng đã xế chỉ qua một sợi tóc, cũng không ăn gì nữa. Nghĩa là có thể ăn được từ khi mặt trời mọc cho tới đứng bóng. Đức Phật dụng bóng mặt trời làm tiêu chuẩn, chớ không cần giờ. Vì Đức Phật biết rằng mỗi nơi giờ khắc khác nhau, thì khó cho chư Tỳ khưu theo, nên dùng mặt trời để cho chư Tăng sau này làm tiêu chuẩn. Giới này dạy giảm bớt sự ăn, để con người bớt bận rộn về ăn và còn dư thời giờ để niệm Phật tham thiền. Giới này làm cho con người biết tri túc. Vì miếng ăn mà chúng sanh làm thêm nhiều tội lỗi. Người không ăn cơm chiều, trước chưa quen, thấy khó chịu, sau dần quen, thấy trong người dễ chịu và nhẹ nhàng lại ít ngủ, nhờ vậy mà có thể tham thiền dễ dàng.

Giới thứ 7 là không múa hát, xem múa hát … Đức Phật muốn kềm hãm tâm của chúng sanh lại, không cho ham mê những tiếng hay vị thơm và mê theo thân này, quên rằng mình già đi, lo tìm phương pháp che lấp cái già, tô lên phấn để dấu nét nhăn, nhuộm tóc đen lại để che cái trắng. Không trang điểm thân này để xa lần cái quý mến nó, mà nhờ vậy mà ta có thể tham thiền hay hành minh sát tuệ được.

Giới thứ 8 là không nằm ngồi nơi cao sang xinh đẹp, cốt là để trừ phiền não, tức là ham mê trong sự nằm, ngồi nơi tốt đẹp mềm dịu. Khi người thích sự nằm ngồi êm đẹp, thì gặp nơi khác, phiền não sanh lên làm cho tâm nhơ đục.

Bát quan trai giới có ba cách khác nhau:

– Paraka uposatha: nghĩa là bát quan trai giới thường. Bát quan trai giới này thọ trì một ngày một đêm. Mỗi tháng có 8 ngày là mùng 5, 8, 14, 15, 20, 23, 29, 30 (tháng thiếu thọ ngày 28, 29). Người ta có thể thọ đủ tám ngày, hay 4 ngày, 2 ngày tùy theo sức mình, không ai bắt buộc.

– Patijāgara uposatha: nghĩa là bát quan trai giới theo trật tự, theo đây thì trước ngày chánh của bát quan trai giới một ngày, phải nhớ sửa mình trong ngày ấy, rồi ngày sau là ngày chánh, nên tạm gọi là bát quan trai giới thọ ngày rước và ngày đưa. Bát quan trai giới này trong mỗi tháng có 12 ngày là mùng 1, 4, 6, 7, 9, 13, 16, 19, 21, 22, 24, 28, (tháng thiếu là ngày 27). Bát quan trai này nếu người thọ đủ mỗi tháng phải thọ 20 ngày (muốn hiểu rõ, xin xem quyển Nhựt Hành của Đại đức Hộ Tông).

– Patihāriya uposatha: nghĩa là bát quan trai giới thọ trì từ ngày 16 tháng 6 tới rằm tháng 9, nghĩa là thọ theo ba tháng hạ của chư Đại đức (Tỳ khưu).

Trong bộ Chú giải của bài kinh Uposatha có dạy: Người muốn thọ trì bát quan trai cho trong sạch, thì trước ngày thọ phải coi sóc việc trong nhà cho chu toàn, rồi sáng lại đi thọ, người thọ chính chắn trong một ngày đêm không nói tới gạo trắng gạo đen, cơm khô cơm nhão. Nói tóm lại, chuyện gì ngoài kinh luật nhà Phật, tuyệt nhiên không nói đến.

Chúng ta không nên thọ bát quan trai giới như người chăn bò, sáng ngày đến lãnh bò lùa ra đồng bỏ đó, mặc kệ bò đói hay no cũng chẳng cần, miễn là chiều đem về giao đủ cho chủ thôi. Người thọ bát quan trai, sáng ra đến thọ trì giới cùng nhà sư, khi thọ xong về nhà tha hồ không nghĩ gì cả, chỉ thọ cho có chừng, được phước chút nào hay chút ấy thôi, cả ngày lẫn đêm không có niệm tưởng đến ân đức Tam Bảo, không quán tưởng đến vô thường, khổ não vô ngã. Người thọ giới như thế gọi là bát quan trai như người chăn bò.

Cũng trong bài kinh Uposatha, Đức Phật còn dạy rằng: “Cho dù là nhà vua còn ngự trị trên 16 nước lớn trong cõi Diêm Phù Đề này có cả 7 thứ châu báu, có quyền uy sang trọng nhất, nhưng cái phước ấy cũng vẫn không bằng một phần thứ 16 của công đức thọ bát quan trai giới một ngày và một đêm”.

Đây tôi xin nhắc tích đức vua Udaya để quí vị thấy quả của bát quan trai giới:

Trong thời quá khứ, tại xứ Barānasī, có một ông trưởng giả tên Suciparivā thích làm phước; những người trong gia đình ông, từ vợ con cho đến người ăn kẻ ở, ông đều dạy họ thọ trì bát quan trai giới ít lắm một tháng 6 ngày.

Khi ấy, có một người mới đến ở, không biết rằng tất cả người trong nhà ông đều thọ bát quan trai giới. Người ấy làm việc siêng năng. Ngày nọ nhằm ngày giới, nhân công trong nhà chỉ ăn một buổi thôi. Riêng người làm công mới ấy cứ đi ra đồng làm việc như thường lệ, vì anh không biết. Trong khi ấy những người khác không đi làm mà vẫn ngồi niệm Phật, hoặc quan sát lại phẩm hạnh của mình. Chừng anh đi làm đồng về, người làm bếp mới dọn cơm ra cho anh ăn.

Anh lấy làm lạ vì mọi khi chừng này, người trong nhà tụ hội lại ăn uống om sòm, mà bữa nay họ đi đâu mất hết? Anh mới hỏi người làm bếp. Người làm bếp đáp: “Những người ấy giữ bát quan trai, nên họ về chỗ nghỉ của họ hết”. Anh ta mới nghĩ rằng: “Ta ở chung với toàn thể những người có giới đức, vậy ta không nên để cho ta thành người không có giới đức”. Anh bèn không ăn cơm và vào hầu ông trưởng giả, rồi hỏi rằng: “Thưa ông, nếu tôi phát nguyện thọ bát quan trai giới giờ này, thì tôi có được phước của bát quan trai không?”.

– “Người không phát nguyện thọ từ sáng sớm, nếu ngươi thọ từ bây giờ thì chỉ được nửa ngày phước thôi”.

Anh ấy nghĩ rằng: “Dù phân nữa cũng được, còn hơn là không có”. Rồi anh mới xin phát nguyện thọ. Sau khi thọ xong về chỗ nghỉ và quan sát về phẩm hạnh của mình. Vì cả ngày làm việc vất vả, tối lại không có ăn gì, đến khuya, anh bị ngộ gió độc. Ông trưởng giả đem thuốc và vật thực lại cho anh và bảo rằng: “Đây con hãy dùng thuốc và vật thực này đi”.

Anh thầm nghĩ: “Ta nguyện không phạm giới”. Anh mới trả lời rằng: “Tôi giữ giới trong sạch đến chết”.

Đến rạng đông anh không còn sức chịu nổi với chứng bệnh làm anh mê man. Người nhà mới cho rằng anh sắp chết, nên khiêng ra để ngoài hiên, vì người thời ấy không để người chết trong nhà.

Ngày ấy, đức vua Bārānasī ngự đi quanh thành để xem sự sinh sống của nhân dân. Anh làm công ấy trông thấy sự sang trọng của nhà vua, liền thầm ước muốn được như vua. Anh chết liền trong khi mơ ước như vậy, anh lại sanh vào lòng hoàng hậu xứ Bārānasī do nhờ quả của bát quan trai giới. Sau khi anh sanh ra, đức vua đặt tên anh là Udaya. Khi được lên nối ngôi của vua cha, Udaya nhớ kiếp trước nên gắng lo tu hành.

Khi Đức Thế Tôn thuyết tích này xong, ngài mới dạy rằng: “Này các Tỳ khưu, một khi người đã thọ bát quan trai giới, thì gọi là làm những việc lành mà các bậc trí thức xưa kia đã được hưởng quả cao quý ấy”.

Việc làm vô tội (không tạo tội lỗi) theo Phật dạy có 10 điều là:

– Pakati Uposatha: bát quan trai giới thường, nghĩa là thọ một ngày một đêm thôi.

– Veyyavacakaranam: giúp đỡ nhau theo lẽ đạo.

– Ārāmarupā: cất chùa.

– Vanarupā: trồng cây.

– Setukaranā: làm cầu.

– Papa: đào giếng.

– Udapāna: để nước theo đường cho người uống.

– Upasava: làm nhà theo đường cho người ở.

– Dhammattha: bố thí tham thiền.

– Sīlasampaññā: có giới hạnh trong sạch.

Làm việc vô tội có những điều hạnh phúc là:

1. Gọi là người chuẩn bị sẳn sàng trước khi chết.

2. Là đại phúc.

3. Ngăn đường ác đạo.

4. Diệt được phiền não.

5. Là người hộ trì Phật giáo.

6. Gọi là người cúng dường cao quý đến Tam Bảo bằng mình hành đạo.

7. Được hạnh phúc tùy theo Ba la mật của mình đã làm.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.