Giảng Giải 38 Pháp Hạnh Phúc – Chương 7 & 8

KỆ NGÔN VIII

HẠNH PHÚC XXVII

Khantī
Nhẫn nại

Khantī nghĩa là nhẫn nại, mà cũng có nghĩa là món vật trang điểm, thiêu đốt các tội ác sức mạnh, nước, ngăn đón, vắng lặng, đè nén diệt trừ, đạo binh hùng. Nhưng đây tôi xin giải riêng nghĩa nhẫn nại thôi.

Nhẫn nại có nghĩa là nhịn nhục và nín thinh.

Khi người lớn la rầy kẻ dưới, dù oan, kẻ dưới vẫn nín thinh, không trả lời lại, hoặc vì lễ nghi, hay vì quyền lợi, đó không gọi là nhẫn nại, mà gọi là nín thinh, hay gắng mà chịu đựng vì sợ, chỉ tạm gọi là nhẫn nại.

Có câu Phạn ngữ rằng: Bhayāhi setthavaco khamatha saram bhahetu pana sādisassa, nghĩa là: Người chịu đựng sự la rầy mắng nhiếc của người có quyền chức lớn hơn mình vì sợ, nín chịu với người ngang hàng mình, là nhờ sự nhịn. Người nào nhịn chịu sự mắng nhiếc rầy la khinh bỉ của người nhỏ hơn mình, người ấy mới gọi là nhẫn nại.

Chú giải câu Phạn ngữ ấy có dạy rằng: “Câu gọi là nhẫn nại có nghĩa là chịu đựng với những lời của kẻ dưới mình, như người dưới quyền, nhỏ hơn, gia đình thuộc hạng bần tiện, người nhịn chịu được với những hạng người ấy mới gọi là nhẫn nại cao thượng”.

Sự nhẫn nại ví như lửa để thiêu đốt phiền não. Phật có dạy: Chúng sanh nào thương kính Như Lai nên hành hạnh nhẫn nại.

Phương ngôn có câu: “Gặp Phật thì tu, gặp quỷ thì trừ”. Gặp Phật thì đã đành, vì Đức Phật dạy ta làm lành lánh dữ, và ta người muốn giải thoát, tất nhiên muốn gặp Phật, thì khi gặp là tu. Còn câu “gặp quỷ phải trừ” vậy phải trừ bằng phương pháp nào đây? Câu phương ngôn nói trên đúng được một phần, là gặp Phật phải tu. Còn câu sau thì Phật giáo không thể chấp nhận được, vì chủ trương của Phật là bao giờ cũng nhẫn nhịn, nên tôi xin sửa phần ấy là “gặp quỷ ta cần phải tu nhiều hơn”. Vì quỷ là nhân làm cho ta uất ức buồn phiền, mà ta nhịn chịu được như thế mới thấy ta tu, nhược bằng gặp quỷ ta tranh đấu với quỷ, thì ta cũng là quỷ, chớ không còn là người tu. Theo tôi những quỷ ấy là nhân thử thách, xem ta tu tới mức độ nào. Vì gặp quỷ là nhân ta đem ra thứ lòng nhẫn nại của ta. Quỷ không khác là lửa, mà hạnh nhẫn nại của ta quí như vàng. Nhờ có lửa hồng ta mới có dịp thử được tuổi vàng mà ta có.

Nhẫn nại có ba tác dụng:

1. Tītikkha khantī: nhẫn nại do oai lực của sự nhịn chịu. Ý nói đè nén tâm không cho tâm chạy theo tham lam, sân hận, si mê, không cho phiền não biểu lộ ra ở thân, khẩu, ý. Người mà nhẫn nại như thế thì làm cho giới được trong sạch.

2. Tapakhantī: sự nhẫn nại là một thứ lửa thiêu đốt phiền não bên trong bằng thiền định. Ý nói người nhẫn nại hành thiền định để diệt trừ phiền não bên trong.

3. Adhvanakhantī: nhẫn nại đè nén phiền não vắng lặng và có thể chặn đứng phiền não do minh sát tuệ, nghĩa là do nơi minh sát tuệ có thể nhổ tận phiền não ngủ ngầm trong tâm rất khó tận diệt, gọi là thụy miên phiền não.

Nhẫn nại có ba đối tượng:

1. Nhẫn nại với sự khổ: ý nói khi người bệnh hoạn hay chuyện khổ lòng, không khi nào rên la, than oán gì cả.

2. Nhẫn nại với sự cực nhọc: ý nói khi người làm việc nhiều không hề buồn hay than vãn, vẫn cố gắng làm cho kỳ được, nghĩa làm xong phận sự của mình.

3. Nhẫn nại với sự đau lòng: ý nói khi mình vì sự trái nghịch lòng, cũng gắng chịu không hề than vãn oán trách gì cả, không bao giờ phê bình không nói chuyện của người khác. Các câu này có ý nói khi bị người chê bai chỉ trích cũng chẳng hề quan tâm để ý, đúng theo Phật ngôn dạy: Tasseva tena āpiyo yo kuddham patiku jjhati, người mà giận trả lại người giận mình, người ấy càng tệ hơn người giận mình.

Sự nhẫn nại mà nói theo Pháp chính là Adosa citta, nghĩa là tâm vô sân, tâm này thuộc về tâm đại thiện, Phạn ngữ gọi là Mahākusala. Tâm không sân là trạng thái của tâm không cột oan trái, có sự không nóng nảy là phận sự, có sự mát mẻ là hiện tượng, có tâm rất thận trọng là nhân, làm cho nhẫn nại phát sanh.

Thái độ của nhẫn nại là:

1. Assunantoviya: bị người chửi mắng làm như không hay không biết gì hết.

2. Apassannoviya: làm như không thấy người đang chửi mắng mình.

3. Bhadrakotamanasikāro: chỉ biết để tâm vào thiền định.

4. Damo: cố dạy tâm mình, hay đè nén tâm không cho vọng động vì những chuyện bên ngoài, là chửi mắng.

5. Upasano: cố đến gần thiện pháp và xa ác pháp như oan trái, oán thù, làm hại người .v.v…

6. Acandikko: không hung dữ.

7. Anassuroph: không làm cho người bị lụy, nghĩa là không làm cho ai khóc, chỉ biết làm cho người vui cười với việc thiện.

8. Attamanatā: tâm được thư thả, nghĩa là luôn luôn có an lạc.

Chú giải có dạy rằng Tỳ khưu có lòng nhẫn nại là người có tính cách làm như điếc, không cần nghe những lời của kẻ khác khen hay chê, hoặc chửi mắng; hay làm như người bại xuội, nghĩa là không đánh đập mình, cũng như vị đạo sĩ tên Khantīvādī hằng cố gắng làm cho tâm mình trong sạch bằng đức tánh nhẫn nại, hoặc như Đại đức Punna, là vị mà Đức Thế Tôn tuyên dương công đức là người nhiều nhẫn nại nhất trong hàng đại đệ tử Phật. Tôi xin lần lượt nhắc sự tích ấy theo Túc sanh truyện.

Trong lúc quá khứ, Đức Bồ tát sanh vào dòng Bà la môn Kunda ở tại kinh đô Bārānasī. Ngài xuất gia làm đạo sĩ ở tại rừng Tuyết Lãnh rất lâu. Ngày nọ ngài về thành Bārānasī ở tại vườn thượng uyển. Lúc ấy đức vua Bārānasī tên là Kulāpu uống rượu say, dẫn phi tần vào vườn thượng uyển chơi. Đức vua vì say nên ngủ quên. Các phi tần thấy vua ngủ, nên rủ nhau đi chơi, gặp vị đạo sĩ đang ngồi dưới cội cây, mới rũ nhau đến làm lễ và nghe pháp.

Sau khi tỉnh rượu, đức vua không thấy có một phi tần nào hầu ngài, nên nổi giận xách gươm đi kiếm. Khi ấy có một vương phi được vua yêu nhất, giựt lấy gươm ngài. Khi ngài ngự đến cội cây, thấy vị đạo sĩ mới hỏi: “Này thầy Sa môn, ngươi hằng dạy người bằng pháp gì?”

– Tâu Đại vương, bần đạo hằng dạy về pháp nhẫn nại.

– Nhẫn nại là gì?

– Nhẫn nại là sự không sân hận, trong khi kẻ khác chửi mắng, đánh đập, khinh bỉ mình.

– Nếu vậy, ta sẽ trông thấy ngươi có pháp nhẫn nại hay không.

Rồi ngài truyền đao phủ thủ rằng: “Người hãy đè vị đạo sĩ này xuống, đánh khắp châu thân y hai ngàn roi cho trẫm!”. Đao phủ thủ làm y theo lời. Rồi đức vua hỏi: “Ngươi hằng dạy người pháp gì?”

– Tâu Đại vương, bần đạo hằng dạy về nhẫn nại, có lẽ Đại vương tưởng rằng nhẫn nại ở theo da của bần đạo chăng? Nhẫn nại không ở theo da của bần đạo đâu, nhẫn nại ở trong thâm tâm của bần đạo.

– Các người hãy chặt tay và chân của vị đạo sĩ này cho trẫm! Vua phán lịnh ấy cho đạo phủ đã tuân hành.

Đoạn Vua hỏi như trước. Đạo sĩ tâu rằng: “Tâu Đại vương, bần đạo hằng dạy về nhẫn nại. Đại vương tưởng rằng, nhẫn nại ở theo tay chân của bần đạo chăng? Nhẫn nại không có ở theo tay chân của bần đạo đâu!”

Vua liền phán:

– Các ngươi hãy lắc tay xẻo mũi tên đạo sĩ này cho ta.

Sau khi đao phủ thực hành xong, đức vua cũng hỏi như trước. Vị đạo sĩ cũng trả lời như trước. Đức vua tức giận vô cùng, mới nện gót chân lên ngực đạo sĩ, rồi bỏ đi. Mặt quả địa cầu có sức chở nổi núi non, nhưng không chở nổi tội lỗi của nhà vua, nên nứt làm đôi. Đức vua bị đất sụp chết, sanh vào A tỳ địa ngục.

Sau khi vua ra đi, có một vị quan hầu vào lau máu cho đạo sĩ và nói rằng: “Bạch ngài nếu ngài có giận, xin ngài giận nhà vua làm khổ ngài, đừng phiền chúng tôi.”

Đạo sĩ nói: “Nhà vua nào truyền chặt chân tay, cắt tai xẻo mũi ta, ta cầu xin đức vua ấy được sống lâu. Vì người như ta không bao giờ biết giận.”

Quí hóa thay, cao thượng thay, hạnh của vị đạo sĩ, mặc dù ngài đã chết, nhưng hương lành cũng vẫn còn lưu lại đến hôm nay. Ngài đã nêu gương quí báu về đức nhẫn nại. Người muốn biết rằng mình có tu hay không, là biết trong trường hợp phải sanh hận, tham lam v.v… Nếu muốn tu theo pháp nhẫn nại, phải có trí nhớ, nhớ rằng: Những trường hợp làm lung lạc ta, đó là những cơ hội thử thách lòng ta, xem ta tu đến mức độ nào, ta nên nhớ dùng nhẫn nại để thắng những thử thách ấy. Người có đủ lòng nhẫn nại là người có đủ khí cụ thắng những người hung ác, như Đại đứcPunna trong Túc sanh truyện.

Có một người phú thương tên Punna ở xứ Sunāparanta đi đến kinh đô Savatthā (Thất La Phiệt), được vào hầu Phật và nghe pháp, ông phát tâm trong sạch muốn xuất gia, nên ông gọi người quản lý đến bảo y đem hết của cải của ông và trao lại cho em là Culapunna. Rồi ông xuất gia và học tham thiền với Đức Thế Tôn. Khi ông ở tại thành Thật la phiệt không được kết quả tốt đẹp, ông mới nghĩ rằng nơi đây phong thổ không hạp với ông, ông muốn đi về xứ Sunāparanta, nên vào hầu Đức Phật xin đi về xứ đó.

Đức Thế Tôn hỏi: “Thầy muốn đi ở nơi nào”?

– Bạch Đức Thế Tôn, đệ tử xin đi xứ Sunāpa-ranta.

Đức Thế Tôn biết rõ rằng, ông là người có rất nhiều đức nhẫn nại vô lượng vô biên. Nhưng Ngài hỏi để ngài giải đức nhẫn nại cho chư vị Tỳ khưu nghe và cho thiện tín được thấy đức nhẫn nại của ông Punna.

Trong tạng Kinh, bộ Majjhimanikāya, bài kinh Punnavādasutta thuật rằng Đức Thế Tôn hỏi: “Này Punna, người xứ Sunāparanta rất hung ác, thô lỗ. Punna, nếu người xứ ấy chửi ngươi, dọa nạt ngươi, thì ngươi có phương pháp chi đối phó với người xứ ấy?

– Bạch Đức Thế Tôn, nếu người xứ Sunāpa-ranta chửi mắng, dọa nạt đệ tử, đệ tử nghĩ rằng, những người xứ Sunāparanta thật là tử tế, vì họ không đánh đệ tử bằng tay. Bạch Đức Thế Tôn, trong trường hợp này đệ tử nghĩ như vậy.

– Này Punna. Nếu người xứ Sunāparanta họ sẽ đánh ngươi bằng tay, trong trường hợp này nhà ngươi đối phó thế nào?

– Bạch Đức Thế Tôn, người xứ Sunāparanta đánh đệ tử bằng tay, đệ tử sẽ nghĩ rằng, những người xứ Sunāparanta thật là tử tế, vì những người ấy chưa chọi đệ tử bằng đá. Bạch Đức Thế Tôn trong trường hợp này đệ tử nghĩ như vậy.

– Này Punna, nếu người xứ Sunāparanta chọi ngươi bằng đá, trong trường hợp này, ngươi mới đối phó thế nào?

– Bạch Đức Thế Tôn, người xứ Sunāparanta chọi đệ tử bằng gạch đá đệ tử cũng vẫn nghĩ rằng, những người xứ Sunāparanta thật là tử tế, vì họ chưa đánh đệ tử bằng cây. Bạch Đức Thế Tôn trong trường hợp này đệ tử nghĩ như vậy.

– Này Punna, nếu người xứ Sunāparanta đâm ngươi bằng kiếm, chém ngươi bằng dao, trong trường hợp này ngươi đối phó bằng cách nào?

– Bạch đức Thế Tôn, nếu những người Sunā-paranta đâm đệ tử bằng kiếm, chém đệ tử bằng dao, đệ tử nghĩ rằng những người xứ Sunāparanta thật là tử tế, vì họ chưa giết đệ tử. Bạch Đức Thế Tôn trong trường hợp này đệ tử nghĩ như vậy.

– Này Punna, nếu những người xứ Sunāpa-ranta sẽ giết ngươi, trong trường hợp này ngươi đối phó thế nào?

– Bạch Đức Thế Tôn, nếu những người Sunā-paranta họ sẽ giết đệ tử, đệ tử sẽ nghĩ rằng, chư Thinh văn đệ tử Phật, chán nản gớm ghê thân này, các ngài hằng muốn trừ nó, riêng phần đệ tử không kiếm nhưng may lại được. Bạch Đức Thế Tôn trong trường hợp này đệ tử lại lại nghĩ như thế.

Đức Thế Tôn tỏ lởi hoan hỷ rằng: “Lành thay! Lành thay! Punna ngươi là người có tâm thanh tịnh, là sự nén lòng, ngươi có thể đi đến ở xứ Sunā-paranta. Vậy ngươi hãy tùy tiện đi”.

Theo tích này ta thấy ngài Punna nhẫn nại trong bảy trường hợp: chửi, dọa nạt mắng nhiếc, đánh bằng tay, chọi bằng đá gạch, đáng bằng cây, chém bằng dao, đâm bằng kiếm, giết chết.

Nhẫn nại cao cả như thế mới đáng gọi là Phật tử. Nhờ đức nhẫn nại ấy mà ngài Punna chinh phục được tất cả lòng người trong xứ ấy, những người chửi mắng ngài đều trở nên tín đồ của ngài. Riêng ngài, nhờ đức nhẫn nại ấy nên ngài đắc quả A La Hán tại xứ Sunāparanta. Chúng ta hãy noi theo gương ngài mà vâng giữ hành theo nhẫn nại.

Hạnh nhẫn nại mà được hoàn toàn cao quí, cũng nhờ có hạng quí báu, ta nhẫn nại được mới kết quả, chớ nếu ta ở chung với bậc thiện nhân, thì có ai làm cho ta buồn giận mà có nhẫn nại. Nói vậy, không có nghĩa là xúi giục quí vị thân với người ác, mà là để quí vị nhớ, khi nào gặp quỷ thì gắng mà nhẫn nại, đừng chống đối với nó, một là mất sự nhẫn nại, hai là gây thêm nhiều oan trái oán thù, thật là phiền lắm vậy.

Người mà có đủ đức nhẫn nại như Đại đức Punna mới là người đáng làm hướng đạo về phương diện nhẫn nại, đáng làm gương lành cho chúng ta soi và hành theo. Gương nhẫn nại của ngài có hai điều đặc sắc:

1. Ngài là bậc hy sinh cho lẽ đạo, mặc dù biết rằng Sunāparanta là nơi khó khăn nhiều rắc rối.

2. Một khi ngài đã xuất gia cố tâm giải thoát, thì ngài không nài lao khổ, miễn được giải thoát là lòng mà nhờ ấy mà ngài truyền bá được phép mầu cho người trong xứ ấy.

Chú giải của bài kinh Sunāparanta có dạy rằng: Sự nhẫn nại là sự nhịn nhục chịu đựng mọi sự việc, không hề làm hại kẻ khác, không làm cho kẻ khác rơi lụy buồn khổ. Tika của bài kinh này là dạy rằng: Sự nhẫn nại là sự nhịn chịu với sự làm ác, nói ác của kẻ ác đối với mình và hơn nữa không hề oán giận. Vì phần đông chúng ta không thể nhịn được những sự bực tức vẫn còn trong tâm. Vậy ta cần phải có trí nhớ để quan sát lòng ta, xem lòng ta có sự bực tức không, nếu còn thì ta biết rằng ta chưa đủ đức tính nhẫn nại, chỉ mới học được sự im hơi lặng tiếng thôi. Vì lòng oán hận là vòng oan trái hãy còn trong tâm, đây là phiền não ngủ ngầm trong tâm. Nếu ta thấy lòng ta mát mẽ vui vẻ thì ấy mới thật là nhẫn nại. Người làm chủ tâm mình được, thì ngoài mặt như trong lòng, không chút giận hờn oán ghét và trái lại vui vẻ như thường, nhất là rất hài lòng vì thấy sự tu tập của mình được tiến hóa, không bị trần cảnh chế ngự, như thế mới là người làm chủ tâm.

Tika của bài kinh Sabbāvasutta trong bộ Mullapaññāsaka có dạy rằng: Nhẫn nại gọi là nhịn nhục, ý nói sự nhịn chịu với những điều (sỉ nhục) của kẻ khác (đối với mình) mà mình không oán giận… Chú giải bộ kinh Sabbāvasuttata dạy: Nhẫn nại là sự nhịn chịu với cả sự khó khăn, như hai vị Đại đức trong hai tích sau đây:

a) Có vị Đại đức tên là Lomasanagathora, ở hành đạo tại hang tên Piyangu trong núi Cetiyapappata. Khi ấy nhằm mùa nóng, trời thật nóng, nhưng ngài vẫn tự nhiên ngồi tham thiền giữa nơi trống trải, mồ hôi đổ ra. Chư đệ tử thấy ngài như vậy nóng lòng nên đến bạch xin ngài vào ngồi trong mát.

Ngài đáp: “Vì ta sợ nóng nên mới ngồi đây”. Rồi ngài mới quan sát đến cái nóng ở địa ngục còn cao gấp không biết bao nhiêu tỷ tỷ lần của sự nóng này, nhờ vậy nên đắc quả A La Hán tại chỗ ấy. Đây là gương lành mà chúng ta nên noi theo.

b) Lại có tích của vị Đại đức khác. Khi vị Đại đức này đi khất thực thiếu cơm ăn cả ba ngày, sự đói khát làm cho ngài rất khổ, nhưng không vì lẽ ấy làm cho ngài nãn lòng, ngài càng quan tâm suy nghĩ đến cái khổ như vầy: Khi ta còn luân hồi trong cõi sa bà này, thì đã biết là bao nhiêu lần ta sanh làm ngạ quỷ (quỷ đói) phải bị đói khát hơn đây vô lượng vô biên.

Khi ấy tâm ngài rất kinh sợ về sự luân hồi. Ngài dùng minh sát tuệ quan sát vô thường, khổ não, và vô ngã nên đắc A la hán quả.

Tích sau này ngụ ý khuyên ta không nên để những sự khổ bên ngoài như đói, khát, nóng, lạnh v.v… chi phối mà bỏ dở sự tu hành, mà làm mất lòng cao quí của ta.

Những thành tích vẻ vang của các bậc Đại đức ấy giúp cho ta thấy rằng: Các vị tiền nhân của chúng ta đã làm được lợi ích cho họ và nhờ đức nhẫn nại. Vì vậy nên Đức Phật dạy nhẫn nại là một hạnh phúc mà toàn thể chúng sanh đều phải mong ước.

Trong Túc sanh truyện tên Sarabhanga kể rằng:

Có một vị đạo sĩ tên Sarabhanga bạch với Đức Thế Tôn rằng: “Người dứt được lòng sân hận thì không bao giờ có sự than vãn. Các vị đạo sĩ hằng khen tặng để không quên ơn người. Những người nhịn chịu được chê bai khinh bỉ của kẻ khác, các bậc trí thức gọi là nhẫn nại cao thượng.”

Đạo sĩ Sarabhanga cũng có dạy rằng: “Người nhận chịu được những lời rầy la của người lớn hơn mình là vì lẽ sợ, nhịn chịu được lời nói của người ngang bằng mình là vì sợ oan trái oán thù, chỉ có người chịu nhịn được với những lời lẽ của kẻ nhỏ hơn mình, hèn kém hơn mình, các bậc trí thức mới hằng ca tụng ngợi khen người ấy là người nhẫn nại cao thượng.”

Vậy nhận chịu được những lời nói và hành động của người nhỏ hơn mình mới gọi là nhẫn nại.

Khi xưa thường có trận giặc giữa A tu la vương và chư thiên. Lúc nọ Đức Đế Thích thắng trận bắt được A tu la vương tên là Vepacitta đem về trói lại cột cờ. A tu la vương chửi mắng Đức Đế Thích rằng: “Ngươi là kẻ cướp, là kẻ hung ác, ngươi là bò, là lừa, là lạc đà, là loại địa ngục, là súc sanh, người không còn đường sanh về cõi trời nữa, chỉ còn sanh vào ác đạo thôi. Không phải ngươi thắng hoài đâu. Ngày nào A tu la thắng, khi ấy ta sẽ cột ngươi như thế này, để ngươi nằm trước A tu la và sẽ đánh ngươi.”

Khi ấy có một vị chư thiên tên Matalī hỏi Đức Đế Thích rằng: “Đại vương nhẫn nại để cho bọn A tu la chưởi mắng như thế này, vì sợ hay vì nhẫn nại?”

– Không phải ta sợ Vepacitta mà nín đâu, mà chỉ vì sự nhẫn nại, nhẫn nại mới là cao quí tuyệt đối. Kẻ nào có sức mạnh (các thứ thế lực) mà lại nhẫn nại đối với kẻ dưới tay mình, yếu thế hơn mình mới là cao quí. Vì kẻ yếu hơn mình, mình có thể hiếp đáp được trong mọi trường hợp (nếu ta muốn).

Ý Đức Đế Thích nói rằng: A tu la vương trong tay ngài muốn hành hạ cách nào cũng được, nhưng đây là sự nhẫn nại của ngài. Chú giải có dạy rằng: Làm lợi ích cho ai cũng không bằng làm lợi ích cho mình, mà những phương pháp làm lợi ích cho mình cao quí nhất là nhẫn nại.

Đức Phật dạy trong Pháp Cú kinh rằng: “Người không làm hại kẻ khác chửi mắng mình, đánh đập mình và bắt mình, người mà nhẫn nại được như vậy. Như Lai gọi người ấy là người có sức mạnh, có một đạo binh hùng mạnh (là nhẫn nại), gọi người ấy là Bà la môn”.

Chú giải của câu Phật ngôn này dạy rằng: Người nhịn nhục được với tất cả sự khổ nhục vì bị người khác đưa đến không buồn giận,vì có nhiều lòng nhẫn nại. Đức đánh đuổi được tội lỗi một cách dễ dàng. Chú giải bài kinh Vasetthaviết rằng người không giận trả lại người sân hận là người thắng được trận giặc mà khó có người thắng được. Theo câu này cho ta thấy rằng sự giận trả lại người sân hận, là sự rất hèn. Người muốn có sự nhẫn nại, trước hết nên tập trí nhớ để kềm chế tâm và quan sát tâm, đừng để tâm đi quá phạm vi của nó là nhẫn nại.

Nhờ có trí nhớ nên ta không quên mình, không bị bên ngoài chi phối. Nên nhớ rằng người đang giận dữ là người thiếu cả lương tri, nên mới la lối hay làm những gì mà khi họ không thể làm, khi chưa giận dữ. Như thế họ không khác nào người điên.

Đức Phật có dạy sự nhẫn nại sẽ thắng được khó khăn trên đời. Sự nhẫn nại ví như lưỡi gươm rất bén, cắt đứt được tất cả trở ngại trên đường đời như trong đường đạo.

Xin nhắc lại nhẫn nại có 5 điều quả báo:

1. Piyomanāpo: người có nhẫn nại là người có rất nhiều người thương quý mến yêu.

2. Naverabahulo: người có nhẫn nại là người không có nhiều oan trái.

3. Navajabahulo: người có nhẫn nại người không có nhiều tội lỗi.

4. Navajjabahulo: người có nhẫn nại là người không kinh sợ si mê trong khi sắp lâm chung.

5. Sugatim: người có nhẫn nại là người được sanh về cõi trời sau khi chết.

Có rất nhiều Phật ngôn nhắc nhở người không nên sân hận và nên nhẫn nại. Tôi xin nhắc lại đôi câu để quí vị làm tài liệu:

Akkodham vadabandhaca aduttho yo titikkhati

Khantibalam balanīkam tamaham brūmi brah-manam.

Nghĩa là người nào không làm hại người chửi mắng, đánh đập, bắt bớ (mình), người có sự nhẫn nại (với những thái độ vừa kể) như thế, ta gọi người ấy là người có sức mạnh là nhẫn nại, có đoàn quân tinh nhuệ, là người thả trôi hết các tội lỗi.

Sadatthaparama attha khantya bhiyyo na vij-jati yo nave balavasanto dubbalassa titikphati tama-hu paramam khamtim niccam khipati dubbalo.

Nghĩa là tất cả sự lợi ích, chỉ có sự lợi ích của ta là quý nhất, không có sự lợí ích nào cao quý bằng sự lợi ích của nhẫn nại. Kẻ nào có uy quyền sức mạnh mà nhịn chịu người yếu kém hơn mình, các bậc trí thức hằng ngợi khen sự nhẫn nại cao quý tuyệt đối mà người yếu thế thường hay luôn quấy rầy.

Sự nhẫn nại làm cho người được hạnh phúc là:

1. Là phước vĩ đại.

2. Tạo nên sự đoàn kết.

3. Có rất nhiều người thương mến.

4. Không có sự quấy ác là oan trái oán thù.

5. Được hưởng mọi sự cao quý.

6. Được ba điều lợi ích.

7. Được đồ trang điểm rất quý giá.

8. Được gọi là bậc trí thức.

9. Là người làm cho tâm mình an trụ.

10. Là người ôn hòa.

11. Là người có tứ vô lượng tâm.

12. Là người chắc chắn sẽ đến Niết Bàn.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.