Giảng Giải 38 Pháp Hạnh Phúc – Chương 7 & 8

HẠNH PHÚC XXIX

Samaṇānañca dassanaṃ
Nết hạnh được thấy, được gặp các vị Sa môn

Vấn đề Sa môn xin giảng về ba điểm:

1. Người thế nào gọi là Sa môn.

2. Sự được thấy được gặp các bậc Sa môn.

3. Khi được thấy được gặp các bậc Sa môn sẽ được gì?

Phạn ngữ Samana tạm dịch là Sa môn có nghĩa là thanh tịnh hay trong sạch. Thầy Sa môn là người xa thập ác, không làm hại người hay vật, không ganh tị, là người có thân, khẩu, ý lành.

Tóm lại Sa môn nghĩa là không có phiền não, hay phiền não đã vắng lặng rồi.

Thầy Sa môn là người thường hay quán tưởng, suy xét để sưu tầm chân lý, là người đang hành trình trên con đường của các bậc thánh nhân.

Những người tự xưng mình là Sa môn nhưng không có những pháp của vị Sa môn, những người ấy ví như kẻ cướp, rất lợi hại, mà nhà chức trách không biết để bắt. Vì tướng cướp ấy không có khí giới trong tay mà chỉ có lớp áo nhà tu bên ngoài.

Nơi đây tôi xin đem mấy câu Phật ngôn dạy trong bộ kinh Pháp Cú hầu quí vị làm tài liệu.

Na mundake samano abbato valikam bhanam icchā lobhasamāpanno kim bhivisati: Người không phải thành vị Sa môn vì đầu trọc, chỉ nói rỗng, không lo làm phận sự, có đầy sự ganh tị, tham lam thì gọi là Sa môn sao được?

Lại có câu: Yo ca sameti papani anum thūlani sabbaso smitatahi papanam samanoti pavuccati, người mà Như Lai gọi là Sa môn, phải là người dứt bỏ sự làm tội lỗi lớn nhỏ.

Đây là pháp để chúng ta nhận định vị Sa môn:

1. Upasamitakileso: các phiền não trong lòng đều vắng lặng.

2. Bhavitakayavacñcittappanno: thân. khẩu, ý và trí tuệ đã được tiến hóa.

3. Uttamasamathasamannagato: có sự dạy mình rất hoàn toàn.

Vị Sa môn có những thái độ sau đây:

1. Không làm hại nhân vật nào cả, nghĩa là nếu còn làm hại nhân vật nào hay xúi dục kẻ khác làm hại nhân vật khác, thì người ấy không gọi là Sa môn. Sa môn là người diệt bỏ những sự giết hại nhau và mặc dù lời nói hơi bất khiếm nhã cũng không bao giờ dùng đến.

2. Không vì tư lợi. Thầy Sa môn tự thấy, nếu còn sống ngày nào, dùng những ngày sống ấy để lo tu hành hầu mau giải thoát thôi, không hề làm việc gì ngoài việc tu. Thầy Sa môn không hề làm gì, nói gì đến sự lợi lộc cho mình, ít nhất là sự mơ ước tư lợi cho mình cũng không bao giờ nghĩ đến, và nếu có, thì cố gắng diệt trừ.

3. Hành theo pháp Sa môn. Thầy Sa môn là người xa hẳn thế tục, nên không có phận sự gì có dính dáng đến thế tục, chỉ có phận sự là dạy mình, nghĩa là luôn luôn lánh phiền não, cũng như người thợ bạc luôn luôn lọc lấy vàng nguyên chất, vứt bỏ cặn bã dơ trong vàng.

4. Hành theo pháp TapaTapa nghĩa là lửa hay là nóng, ý nói rằng thầy Sa môn luôn luôn lo diệt trừ phiền não bằng các phương pháp như trì giới, nhẫn nại tham thiền minh sát tuệ.

Sa môn xét trong nghĩa thanh tịnh thì là thân thanh tịnh, không lẫn phiền não như đánh đập hay giết hại người hay thú. Thầy Sa môn ở nơi nào, không bao giờ làm hại nơi ấy, khi đứng dưới cây cũng không làm rụng một lá cây. Đức Thế Tôn có khen Đức Mục Kiền Liên rằng ngài là bậc có thần thông, mà không bao giờ làm phiền lòng một chúng sanh nào.

Khẩu thanh tịnh nghĩa là không bao giờ phạm vào một tiếng nói vô ích trong ác khẩu.

Tâm thanh tịnh nghĩa là tâm đi ngoài vòng tội lỗi, nghĩa là không để phiền não xâm nhập vào và nếu chưa đắc quả cao thượng thì rất có tâm diệt trừ phiền não bên trong.

Phật ngôn còn có dạy thêm pháp để ta nhận biết vị Sa môn: Onodaro yo sahetu jigaccham danta tapasix mitapanabhojano aharahetu nakaroti tam ve na ram samanamahu loke.

Nghĩa là người nào có nhẫn nại với sự đói khát, dạy mình, hành theo pháp Tapa (pháp nóng), biết độ lượng về vật thực và không vì miếng ăn mà làm tội, thì Như Lai gọi người ấy là Sa môn.

Vị Sa môn nào có đủ bốn pháp trên nên gọi là Sa môn.

Sa môn đối với bậc xuất gia và Tỳ khưu như thế nào? Xuất gia là tiếng nói chung, chỉ các bậc trí thức trông thấy người còn có gia đình là còn khổ, nên dứt bỏ gia đình hoặc thọ bát quan trai ở trong rừng làm đạo sĩ, hay thọ thập giới, cũng ở trong rừng làm đạo sĩ để hành một hạnh nào theo ý của mình.

Tỳ khưu, Phạn ngữ gọi là Bhikkhu, nghĩa là Khất sĩ, hay nói dễ hiểu hơn, là xin ăn; còn có nghĩa cao hơn, là người diệt trừ phiền não. Vị Tỳ khưu là một vị trong Phật giáo phải hành theo Tứ thanh tịnh giới (xin xem quyển Luật Xuất Gia của Đại đức Hộ Tông).

Chủ giải có dạy nếu người nào được gặp các bậc Sa môn thì nên:

1. Upasankamanam: đến gần, ý nói đến hầu để học hỏi pháp giải thoát, ngoài ra nên giúp đỡ các ngài những gì ta có thể giúp.

2. Upatthānam: cúng dường tứ vật dụng đến các ngài

3. Anūsāsanam: nhớ đến các ngài, ý nói nhớ đến công, đức của ngài và các Pháp của các ngài dạy ta.

4. Savanam: nghe lời dạy bảo của các ngài, không dám dễ duôi.

5. Dassanam: thấy, gặp, ý nói thấy và gặp bằng nhục nhãn, nghĩa là khi ta trông thấy các bậc có giới, đức trong sạch, thì tâm ta phát sanh lòng tôn kính và muốn vào hầu để học pháp. Nhưng đây chỉ nói là sự thấy và gặp bằng nhục nhãn khiến phát tâm trong sạch. Phát tâm như vậy vẫn được quả báo như trong sự tích sau đây:

Ngày nọ Đức Thế Tôn ngự đến hang Indasalā, có một con chim cu đang đậu bên vệ đường, trông thấy Đức Thế Tôn có hào quang sáng ngời, nó liền phát tâm trong sạch. Đến sáng ngày Đức Thế Tôn ngự đi khất thực, chim cu lại bay theo, vì nó thấy Đức Thế Tôn trang nghiêm. Ngày khác, chim cu thấy Đức Thế Tôn ngự đi, có chư Tăng theo hầu, mỗi vị đều có lục căn thu thúc, càng làm cho Đức Thế Tôn thật là trang nghiêm không tả được. Chim cu phát tâm kính thành và rất trong sạch, không còn biết làm sao để tỏ lòng kính thành, liền bay xuống đứng giữa đường đi, hai cánh chấp lên, đầu cuối xuống tỏ vẻ đảnh lễ Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn thấy vậy biết định ý của chim cu nên Ngài mỉm cười và bảo Ānanda rằng: “Này Ānanda, chim cu này có tâm trong sạch với Như Lai và chư Tăng, là bậc có đức hạnh cao thượng, sau khi chết sẽ được sanh về cõi trời và về sau sẽ đắc quả Độc Giác Phật, tên là Somanassa, đây là do nơi quả của sự được thấy gặp các bậc Sa môn”.

Trong bộ kinh Bojjhangasamyutta Đức Thế Tôn có dạy rằng:

“Này các Thầy Tỳ khưu, vị Tỳ khưu nào có giới, định, tuệ giải thoát và giải thoát tri kiên đầy đủ, này các thầy Tỳ khưu, thì sự trông thấy, gặp các vị ấy, Như Lai gọi là sự thấy đem sự lợi ích; khi được vào hầu các vị ấy, được xuất gia theo các vị ấy, thì Như Lai gọi là thấy và gặp sự lợi ích vĩ đại.

Tại sao vậy? Các thầy Tỳ khưu khi người được nghe pháp của các vị ấy thì sẽ được hai điều là xa thân và xa khẩu (ý nói thân xa nơi đô thị, ở nơi thanh vắng, khẩu thanh tịnh, không nói lời vô ích).

Khi các thầy Tỳ khưu xa hai điều ấy thì tâm hằng nhớ đến các thiện pháp và suy nghĩ các thiện pháp, hằng niệm tưởng các pháp gọi là Satisamboj-jhanga, niệm giác chi, nghĩa là nhờ sự niệm (nhớ) ấy mà giác ngộ (niệm đây có ý nói là tứ niệm xứ).

Một khi được có trí nhớ đầy đủ rồi, thì có trí tuệ thông hiểu các pháp, khi có trí tuệ thông hiểu các pháp ráo rốt thì đắc được Dhammavicaya-sambojjhanga, trạch pháp giác chi, nghĩa là sự nghĩ mà giác ngộ.

Khi cố gắng suy nghĩ các pháp được chu đáo thì đắc được Viryasambojjhanga, tinh tấn giác chi, nghĩa là nhờ sự tinh tấn mà giác ngộ.

Khi sự cố gắng tinh tấn được hoàn toàn rồi, thì đắc được hỷ lạc; đây không phải hỷ lạc của tình dục, hỷ lạc này sanh lên do sự tinh tấn, gọi là Piti-sambojjhanga, hỉ giác chi, nghĩa là hỉ lạc là nhân giác ngộ.

Khi thầy Tỳ khưu cố gắng hành thêm hoàn toàn, thì tâm sẽ được thanh tịnh. Khi thân tâm được thanh tịnh thìPassadhisambojjahanga, khinh an giác chi, nghĩa tâm thanh tịnh là nhân giác ngộ phát sanh.

Khi thân, tâm được trong sạch an vui triệt để phát sanh chừng ấy Samadhisambojjhanga, định giác chi, nghĩa là sự an trụ của tâm là nhân sanh giác ngộ phát sanh.

Này các thầy Tỳ khưu, khi mà tâm được hoàn toàn an trụ thì Upekkhasambojjhanga, xả giác chi, nghĩa là sự bỏ hết mọi việc còn có tính cách luân hồi trong tam giới, là nhân giác ngộ phát sanh.”

Theo bài kinh Sampaññasīlasutta trong Patha-mavagga, Đức Phật có dạy rằng: “Này các thầy Tỳ khưu, sự gặp sự thấy các vị Tỳ khưu ấy, sự vào hầu các vị Tỳ khưu ấy, sự vào ngồi gần các vị Tỳ khưu ấy, sự xuất gia theo các thầy Tỳ khưu ấy, Như Lai gọi là được nhiều sự lợi ích. Tại sao vậy? Vì khi thầy Tỳ khưu thân thiện, vào hầu, vào ngồi gần các vị Tỳ khưu như thế (ý nói có đức hạnh thanh cao), thì làm cho giới đức của ta chưa trong sạch trở nên trong sạch, thiền định chưa trong sạch trở nên trong sạch, trí tuệ chưa được viên mãn hoàn toàn viên mãn, giải thoát chưa được hoàn toàn lại được hoàn toàn, giải thoát tri kiến chưa được hoàn toàn thì lại được hoàn toàn mỹ mãn”.

Theo những lời giảng giải trên, ta thấy sự gặp thấy các bậc Sa môn như vậy mới cao thượng, mới gọi là nết hạnh được thấy, được gặp các bậc Sa môn. Được thấy và gặp các bậc Sa môn bằng tuệ nhãn, như vậy mới hoàn toàn cao thượng tuyệt đối.

Thấy bằng tuệ nhãn có sáu điều thù thắng:

1. Trông thấy thánh pháp của các bậc thánh nhân thấy là minh sát tuệ, đạo quả, thập nhị duyên khởi.

2. Sự thấy rõ đặc ân của thánh pháp là: Giới, Định, Tuệ và đạo quả.

3. Đạt được các pháp mà các bậc thánh nhân đã đắc, định, tuệ và đạo quả.

4. Đã thành thánh nhân bởi đắc minh sát tuệ.

5. Thấy biết rõ sự thật của Niết Bàn.

6. Đắc đường lục thông.

Sự gặp thấy các bậc Sa môn được hạnh phúc là:

1. Được làm phước thiện.

2. Thấy bồ đề phần phát sanh.

3. Được đắc giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến,

4. Được xuất gia theo các ngài.

5. Mắt không bị mây mù (vô minh) che án.

6. Không dễ duôi.

7. Được cúng dường Tam Bảo.

8. Giải thoát khỏi phiền não.

9. Được đến nơi vô sanh bất diệt.

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.