Giảng Giải 38 Pháp Hạnh Phúc – Chương 7 & 8

HẠNH PHÚC XXX

Kālena dhammasākacchā
Tánh cách biện luận Phật pháp theo thời

Sự biện luận Phật pháp theo thời làm cho trí tuệ tăng trưởng, làm cho tâm được an vui trở nên thấy xa hiểu rộng. Biện luận Phật pháp có mục đích giải cho rõ lý của Phật ngôn. Người biện luận luôn luôn không nên lấy ý kiến của mình. Tôi không nói rằng ý kiến của con người là quấy, nhưng ý kiến ấy phải cho đầy đủ nhân quả, lý lẽ và hợp tình cảnh mới có thể chấp nhận được. Điều cần yếu muốn biện luận Phật pháp, trước hết ta nên bỏ lòng ngã ái tự cao, cho rằng ta đây là người thông hiểu hơn những người có mặt nơi đây, nhưng vì ngã mạn như thế mình không chịu nghe theo ý kiến, hay lời nói đúng theo Phật pháp của người khác. Tám muôn bốn ngàn pháp môn của Phật truyền lại không phải là ít, ta không nên ngã mạn khi học sơ qua ba chuyện Túc Sanh truyện hay một ít pháp số, mà tự xem mình là bậc thông suốt lý lẽ của Phật ngôn. Khi người có tánh tự cao, ngã ái, thì không thể biện luận Phật pháp và không thể được an vui.

Sự biện luận Phật pháp chỉ có năm chi là:

1. Aditthajotasākaccha: biện luận để hiểu thêm pháp mà mình chưa thông hiểu

2. Ditthasamsandanasākaccha: biện luận pháp để hiểu rõ thêm pháp mà mình đã hiểu rồi. Khi ấy lợi ích phát sanh đến ta.

3. Vimatticchedanasākaccha: biện luận pháp để giải sự nghi ngờ của mình.

4. Anumattisākaccha: biện luận pháp hầu tìm sự thật.

5. Kathetukamyatasākaccha: biện luận pháp bằng cách vấn đáp với bạn hay tự vấn đáp với mình.

Tóm lại, sự biện luận Phật pháp là nhân đem lại hạnh phúc, là riêng dành cho người muốn tìm lấy con đường giải thoát cho mình, chớ không phải tranh biện để giành sự khen lại cho mình. Nói đến sự biện luận Phật pháp, tôi không thể quên tích Đại đức Xá Lợi Phất khi còn là người cư sĩ.

Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là hai người bạn rất thân, hai người đều là con của trưởng giả. Ngày nọ trong thành Vương xá có lễ, hai người rủ nhau đi xem.

Ngày ấy là duyên lành của hai người đã đến, nên khi xem hát hai người đều có cảm tưởng rằng đời người không khác chi anh kép hát trong một vở tuồng, khi mang râu đội mão là vua chúa, có khi vợ chồng lại đóng làm mẹ làm cha, làm người thù nghịch, khi bỏ mão râu ra là anh kép hát. Cuộc đời thay đổi như thế không có gì gọi là vui đẹp.

Hai ông liền đem ý kiến ấy ra bàn với nhau, thì đồng có ý kiến là tìm đường giải thoát ra ngoài vòng giả dối này. Vì duyên lành chưa đến nên hai ông chưa gặp Phật. Hai ông mới vào học đạo với ông Sanjeyya. Vì nhờ thông minh, nên hai ông học trong mấy ngày thông thấu triệt để giáo pháp của Sanjeyya. Hai ông bảo nhau rằng: “Đây không phải là đường giải thoát, vậy chúng ta chia nhau đi tìm pháp giải thoát, nếu ai tìm được phải cho nhau biết”. Rồi chia mỗi người đi một ngã.

Trong khi ấy, Đức Thế Tôn đã thành đạo và đã có 61 vị đại A La Hán, và Ngài cho mỗi vị đi một nơi để truyền chánh pháp. Đại đức Assajji là một trong năm vị kiều trần như đi về thành Vương xá, ngài ở Trúc Lâm tịnh xá. Sáng ngày, ngài đi khất thực, ông Xá Lợi Phất gặp được ngài và nghe ngài thuyết giảng (đoạn này đã có giải ở đoạn trước).

Sau khi nghe một câu kệ, ông Xá Lợi Phất đã đắc Tu Đà Hườn. Ông về thuật lại cho ông Mục Kiền Liên nghe, ông Mục Kiền Liên cũng đắc Tu Đà Hườn, nên hai ông mới quyết định theo Phật giáo.

Hai ông có tâm kính thành thầy cũ là Sanjeyya nên vào khuyên ông xuất gia theo chánh pháp. Ông Sanjeyya không nghe theo và hỏi rằng: “Trong đời này, người thông minh nhiều hay kẻ ngu dốt nhiều?”

– Thưa thầy, người thông minh ít.

– Vậy hai ông đi theo thầy Cồ Đàm đi, để người ngu dốt cho ta.

Biết rằng không thể nào khuyên ông ta theo chánh pháp, được nên hai ông về Trúc Lâm tịnh xá xuất gia theo Phật.

Sự tùy thời thính pháp có quả báo cao thượng như ngài Xá Lợi Phất.

Sự biện luận Phật pháp được những hạnh phúc:

1. Là đại phước.

2. Là người rất giỏi về sự giải đáp sự nghi ngờ của người khác.

3. Là người có nhiều trí nhớ và trí tuệ.

4. Được nghe và được học các pháp mà mình chưa từng nghe.

5. Pháp mà đã học rồi nhưng chưa hiểu làm cho ta hiểu.

6. Diệt bớt sự nghi ngờ.

7. Trở nên người chánh kiến.

8. Tâm trong sạch khi nghe pháp.

9. Là nguyên nhân cho người đắc quả cao thượng.

10. Có thể giữ được pháp học, pháp hành và pháp thành.

11. Có thể bố thí pháp được.

12. Làm cho Phật giáo được thịnh hành.

13. Giữ được dòng thánh nhân (là bậc thông Phật pháp có thể thuyết pháp cho người đắc đạo quả được).

14. Gọi là người đi theo thánh đạo.

Pháp sư Maha Thongkham (Bình Anson hiệu đính, 2006)

http://www.budsas.org/uni/u-38hanhphuc

This entry was posted in Sách Truyện. Bookmark the permalink.