Nguy hại của sự chấp trước

mo But.jpg
Người xưa nhắc nhở rằng chấp pháp, chấp ngã, chúng ta phải khổ, nhưng tu hành lại bỏ tất cả để rơi vô tình trạng vô tri, chỉ còn kẹt vô pháp, thì thật là nguy hiểm. Pháp là phương tiện dùng để xóa bỏ sai lầm thế gian, nhưng xóa xong thì pháp cũng phải bỏ, cũng như qua sông cần thuyền nhưng lên bờ thì phải bỏ thuyền; nói cách khác, trí giác sanh rồi, dùng trí này để phát triển, thấy được sự thật và tùy theo đó mà ứng xử để phước đức và trí tuệ của chúng ta tăng trưởng; đó là cách sống của người tu không kẹt vào sự chấp trước. Họ có trí tuệ và dùng trí tuệ quan sát, không phải chấp pháp để trở thành vô tri vô dụng; nhưng lấy trí tuệ làm mạng sống thì mạng sống này lớn dần, tức trí tuệ và công đức càng ngày càng lớn hơn. 

Do xả pháp chấp trước, nên lấy đức hạnh làm thân, lấy trí tuệ làm mạng, thì tùy theo sự hiểu biết mà chúng ta có được đời sống ý nghĩa và có đạo đức để cảm hóa người, thấy người có nhân duyên, ta mới quan hệ, không có nhân duyên với ta thì thôi. Phật còn không độ được người không có duyên, làm sao ta độ được.

Người có duyên với ta là thế nào. Người có duyên là người gây khó khăn, hay quý trọng ta. Đối với người quý trọng ta, ta hợp tác làm bạn. Đối với người gây khó khăn, chúng ta cũng thân cận để phát sanh trí tuệ. Người thương và người chống đối ví như chân phải và chân trái, phải có hai chân mới đi tới được. Nhờ có người bươi móc, ta mới tiến bộ, trí tuệ mới phát sanh.

Đức Phật nói rằng khi Ngài làm Chuyển luân Thánh vương, tức là người có phước đức đầy đủ, không ai dám làm trái ý, Ngài thấy cuộc sống không còn ý nghĩa, nên mới nói rằng nếu có người làm trái ý Ngài được, Ngài sẵn sàng nhường giang sơn. Lúc đó, Tiên nhân đến và dạy kinh Pháp hoa, thì vua sẵn sàng bỏ ngôi theo ông. Ông này luôn làm trái ý vua, xem vua có còn buồn giận, khó chịu hay không, nghĩa là Tiên nhân đã giúp nhà vua thấy được sự thật của cuộc đời.

Người tu Đại thừa hay Pháp hoa dùng trí tuệ quan sát người có duyên để chúng ta ứng xử và trưởng thành, chứ không chấp pháp; vì có tiếp xúc với hai mặt của cuộc đời mới nhận ra sự thật của nó. Thật vậy, nếu chúng ta thử tìm cách tiếp xúc sẽ thấy khi đến gần người nghịch duyên thì cử chỉ và lời nói của họ đập vào suy tư, nhận thức của chúng ta, nhờ đó mình phát hiện được sự thật về mình và cuộc đời. Vì vậy, đối với người quý mến tôi, tôi trân trọng, nhưng đối với người chống tôi, tôi kính trọng hơn. Chúng ta quan sát nhân duyên, thấy người chỉ trích, chúng ta đến làm thân để học được những điều mà mình chưa có. Nếu chúng ta chuẩn bị sẵn sàng như vậy thì việc nghịch xảy ra, chúng ta vẫn coi là tốt.

Phật nói khi tiền thân Ngài làm Chuyển luân Thánh vương, không ai dám trái ý Ngài, nhưng Tiên nhân dám cỡi trên lưng Ngài, nhờ đó Ngài mới luyện tập được đức tánh vô nhiễm và vượt qua được tất cả sự chống đối. Đức Phật dạy rằng thực sự ác ma không có khả năng gây khó khăn cho Bồ-tát, chỉ có Bồ-tát lớn hiện thân ra để tạo sự thử thách. Có trí tuệ, chúng ta sẽ nhận ra ý này.

Trường thọ Tiên nhân sống đến 120 tuổi thì chắc chắn không ai có thể tác hại ông, cũng như không có gì trên cuộc đời này cần thiết đối với ông. Người trí như Chuyển luân Thánh vương nhận ra được cốt lõi của Tiên nhân này như vậy, không ai dám chống Ngài, nhưng ông Tiên này dám chống thì Ngài phải học với ông; còn người tham lam, chấp trước thì bực tức với người dám chống lại mình.

Đương nhiên là người đồng hạnh đồng nguyện với ta thì cần hơn; nhưng khi lấy trí tuệ làm mạng sống rồi, đối với người nghịch với ta, ta hóa giải cho đến khi họ không chỉ trích, không chống phá, không hại được ta là chúng ta đắc đạo, không phải trốn tránh. Theo kinh nghiệm riêng tôi, tôi tồn tại được trên bước đường hành đạo nhờ hai việc, xin chia sẻ với quý vị. Việc thứ nhất chắc chắn chúng ta khó có trí tuệ như Phật, tức biết trước việc xảy ra, nên ta vô hiệu hóa nó.

Thực tế cho thấy những người lãnh đạo tài ba hầu hết đều biết trước việc xảy ra, biết mình, biết người, nên thành công dễ dàng. Tuy nhiên, điều này khó có. Nhưng trường hợp thứ hai mà tôi gặp là tánh linh. Phật dạy rằng chúng ta biết là do tự biết, nhưng không có được sự tự biết thì có cái biết thứ hai là được chư Thiên, chư thần mách bảo, hay tánh linh đánh thức chúng ta. Tánh linh này từ đâu mà có? Những người đồng hạnh đồng nguyện với ta không còn hiện hữu trên cuộc đời là Phật và Bồ-tát, các Ngài hộ niệm ta, vì ta hiện hữu trên cuộc đời để làm việc mà các Ngài muốn làm, nhưng các Ngài không có thân người nên không làm được. Ta có thân người, nên các Ngài hộ niệm cho ta để ta làm.

Nếu chúng ta tin Phật và sống theo tinh thần Phật dạy, chúng ta vẫn biết, là do Phật hộ niệm, gọi là tánh linh. Tôi thường có được sự hiểu biết này. Thí dụ buổi sáng, tôi định đi làm một việc nào đó, nhưng tự nhiên cảm thấy mệt mỏi như sắp bệnh, nên tôi không đi; đó là chư Thiên mách bảo đừng đi, đi là thọ nạn và thực tế cũng cho thấy như vậy. Trên bước đường tu, nhận được sự trợ lực của những vị Bồ-tát đồng hạnh đồng nguyện với ta khiến ta thấy biết những điều mà bình thường không biết được, nên dễ thành công.

Thật vậy, quý vị nghiệm xem đối trước những việc khó, khổ, nguy hiểm, tất nhiên ai cũng sợ; nhưng nếu tránh né thì suốt đời không làm được gì. Mọi người sợ, nhưng có người làm thì họ sẽ được nhiều người thương quý. Tuy nhiên, muốn làm được việc khó phải là Phật, Bồ-tát, thánh thần, nếu không thì dễ mất mạng. Nhưng gặp việc nguy khó, nhờ Phật hộ niệm, ta không thấy nguy, không sợ và ta sống được, từ Nhà lửa đi ra là giải thoát.

Vì vậy, khi ta có trí Nhị thừa và phát tâm đại bi, nhận được sự trợ lực của Phật, Bồ-tát. Còn người ẩn tu chứng được trí Nhị thừa, họ thấy cuộc đời đáng sợ, đáng tránh; nhưng Phật dạy trong kinh Pháp hoarằng lúc đó ta mới phát tâm Đại thừa độ sanh là đồng hạnh đồng nguyện với chư Bồ-tát, thì các Ngài trợ lực cho chúng ta, khiến chúng ta thấy được sự thật và dấn thân.

Bước đầu Phật khuyên chúng ta xả chấp để có trí tuệ làm mạng sống, thấy được việc đáng làm và việc không nên làm, nhờ đó tạo được thân giới đức khiến người quý trọng. Lấy trí tuệ và đức hạnh làm thân là có giới thân huệ mạng thì được Phật hộ niệm, chúng ta có sai biệt trí, thấy hoàn cảnh khổ của chúng sanh, ta khởi ý niệm giúp người, nên Phật và Bồ-tát trợ lực, chúng ta mới làm đạo được.

Vì vậy, trên bước đường tu, mượn pháp xuất thế để phá pháp thế gian và thành tựu được pháp xuất thế thì phát tâm Đại thừa nhận được lực hộ niệm của Phật và Bồ-tát, chúng ta hành đạo không nghĩ đến phải trái hơn thua, nhưng việc làm của chúng ta luôn luôn đúng và không thua. Việc tốt chúng ta làm, không cố chấp, dù chúng ta bỏ, nhưng thành quả tốt đẹp vẫn tồn tại trong vô lậu ngũ uẩn, hay Pháp thân. Được như vậy, khi chúng ta bỏ sanh thân này, đi đến thế giới khác thì phước báo luôn đi theo ta và chúng ta hiện thân ở nơi đâu, phước báo hiện hữu cùng ta ở nơi đó.

Hành Bồ-tát đạo, tất cả mọi việc đã làm rồi, chúng ta buông bỏ tâm chấp trước, nhưng nó không mất; còn cố chấp, cố giữ không được mà mất lại khổ hơn. Người tu lâu đến ba mươi năm, nhưng khởi ý niệm mình tu lâu mà không được người kính trọng thì đau khổ, như vậy là cố chấp với việc tu lâu sẽ làm cho mình mất công đức, lúc đó, người sẽ nghĩ chúng ta khó tánh, không dám gần. Nhưng nay, sống hạnh buông xả, người kính trọng hay xem thường thì ta vẫn là ta, miễn ta làm được cho Phật, cho chúng sanh thì sẵn sàng làm. Vô tâm vô tư hành Bồ-tát đạo, tùy theo công đức có được mà tạo thành Pháp thân có trí tuệ và phước đức, lấy đó làm mạng sống. Khi rời bỏ ngũ uẩn sanh thân, chúng ta sẽ thâm nhập vào thế giới tốt đẹp. Cầu mong tất cả đệ tử Phật xả được ngũ uẩn thân và chứng được Pháp thân.

HT.Thích Trí Quảng

http://giacngo.vn/phathoc/2013/05/05/37C643

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.