Xưa tại núi Trung Nhạc có thầy Tỳ kheo Nguyên Khuê hằng ngày ngồi dưới gốc cây trong chốn rừng sâu u tịch để nhập định. Thầy đã giữ giới rất thanh tịnh trong tâm tư đã không, ngoài cảnh được tịnh nên mới chứng được Pháp Hoa Tam Muội. Công phu tu luyện của Thầy đã khiến Thầy nhận thấy tâm Thầy với Phật đã đối hiệp, thân với Đạo đã cảm thông.
Thần linh các cõi đều cảm phục công đức Thầy và rải hoa Mạn Đà La xuống để dâng cúng.
Một buổi nọ, trăng thanh gió mát, Tỳ kheo Nguyên Khuê tụng niệm vừa xong, bỗng thấy có một người tướng mạo oai vệ đứng bên mình, Thầy vui vẻ cất tiếng hỏi:
– Nhân giả là ai vậy? Người đến với tôi đàm đạo chơi hay có điều chi cần thiết?
Khách đáp rằng:
– Tôi là Thần Nhạc Đế ở núi này, thấy Thầy trì giới thanh tịnh nên hết lòng cảm phục. Nay tôi đến cầu xin Thầy mở lòng từ bi truyền giới cho tôi được tu tập, vì giới Pháp của Đức Phật sẽ hóa độ tất cả chúng sanh vượt ra ngoài sông mê bể khổ.
Tu sĩ đáp:
– Nhân giả đã thành tâm cầu giới thì ắt được, hà tất còn xin ta truyền giới làm chi vì giới tự trong tâm mà ra chứ đâu phải tự ngoài tâm mà tới.
Nhạc Đế khẩn khoản thêm:
– Lời Thầy dạy đó hẳn là tâm lý giới. Tôi còn mê muội chưa thấu suốt được xin Thầy truyền giới cho tôi, tôi tập hành theo sự tướng để ngộ nhập lý tánh.
Tỳ kheo bèn lên điện thắp đèn đốt hương kính cẩn lễ Phật và ngồi lại nghiêm trang thuyết thần Nhạc Đế:
– Năm giới rất khó giữ gìn cho được thanh tịnh viên mãn. Khi kể các giới, nhân giả phải suy nghĩ cho kỹ, liệu giữ được giới nào thì thọ giới ấy, bằng không giữ được thì thôi chớ đừng nên nói giữ được mà sau lại hủy phạm. Như thế thọ giới đã chẳng được công quả gì mà còn thêm mắc tội “pháp giới”.
Vị thần kính cẩn thưa lại:
– Tôi xin vâng theo lời dạy của Thầy.
Thầy Nguyên Khuê lại nói:
– Giới thứ nhất: Phật cấm sát sanh, không cho giết hại thần mạng các giống hữu tình dù nhỏ mọn như loài sâu kiến, liệu ngươi có giữ được chăng?
Nhạc Đế đáp:
– Tôi lãnh nhận nhiệm vụ sát hại kẻ hung ác để răn đời. Nếu bỏ việc ấy tôi sẽ không làm tròn bổn phận.
Giới sư nói:
– Không phải thế, ta muốn ngươi lưu ý đến những kẻ vô tình không cố tâm phạm tội mà trót lỡ lầm phạm phải thì hãy nên châm chước và những án nào mà ngươi còn nghi ngờ thì hãy xét lại tận tường rồi mới ra tay thi hành để tránh giết oan người vô tội.
Nhạc Đế nghe xong nhận xin thụ giới thứ nhất.
Giới sư lại tiếp:
– Giới thứ hai Phật cấm trộm cắp, không cho phép giữ lấy vật gì không thuộc quyền sở hữu của mình, dù là vật mọn không đáng là bao như ngọn cỏ cành rau nếu người không cho, ta không được phép lấy. Nhân giả nghĩ thế nào?
Nhạc Đế nói:
– Tôi làm Thần linh, ngay thẳng lắm không hề trộm cắp của ai.
– Ý ta muốn bảo nhân giả đừng hưởng lễ của kẻ ác mà tha thứ nó, cũng chớ nên trách người lương thiện không hay cúng dường mà chẳng độ trì.
Nhạc Đế nhận giữ một lòng vô tư, làm tròn phận sự đúng như lời Giới sư chỉ bảo.
Giới sư lại tiếp:
– Giới thứ ba, Phật cấm phạm dâm, liệu ngươi có giữ được chăng?
Nhạc Đế ngẫm nghĩ rồi thưa:
– Tôi lỡ đã có vợ rồi, biết làm sao giải được.
– Được, điều đó không sao, nhân giả có vợ nhưng phải gìn giữ cho có tiết độ, ngoài ra không được gian dâm với vợ người hoặc con em người.
Nhạc Đế nhận mình chuyên trừng trị nghiêm khắc những kẻ tà dâm, sẽ không phạm giới ấy.
Đến đây, Giới sư lại tiếp:
– Thứ tư là Phật cấm nói vọng: Không nói dối trá, không nói hai lời, không nói bóng bẩy xa xôi, không nói lời gian ác, nhân giả giữ được hay không?
– Tôi chánh trực công minh không bao giờ nói vọng.
Giới sư nói:
– Như thế chưa đủ, ta muốn nhân giả trước khi nói điều gì phải suy nghĩ chín chắn, coi lời nói có đúng với chân lý hay không. Lời nói là vô cùng quan hệ nhất là đối với người quyền thế, có thể làm cho kẽ khác nên cửa nên nhà hoặc tán thân mất nghiệp.
– Tôi xin tuân lời Thầy.
Giới sư tiếp:
– Giới thứ năm Phật cấm uống rượu, nghĩa là các chất làm say người.
– Rượu là vật đứng đầu trong các lễ vật cúng tế của người thế gian, thiếu nó thì không ra lễ.
Giới sư ngắt lời:
– Như thế có thể châm chước cho nhân giả được dùng chút ít trong dịp đại lễ. Ngoài ra không nên nhận những buổi tiểu lễ và lai rai uống mãi vì uống nhiều mê say đến mất trí khôn, làm hỏng các công việc. Còn khi nào người ta cùng mà lỡ thiếu rượu thì đừng vịn câu “Vô tửu bất thành lễ” mà trách phạt hay không chứng cho người.
Nhạc Đế nguyện xin tuân theo giới tửu trong điều kiện ấy. Giới sư giảng giải thêm:
– Năm giới tôi vừa kể là năm giới gốc làm căn bản cho mọi giới, phàm hễ trì giới thì phải biết kinh quyền, biến thông chớ không thể câu nệ chấp nhất.
Nhạc Đế từ khi thọ giới hết sức vui mừng ra công gìn giữ. Có lần Nhạc Đế quá hào hứng thốt với Giới Sư rằng:
– Thưa Thầy, từ khi trì giới đến nay, Thần thông của tôi rất là diệu dụng, chỉ kém có Đức Phật mà thôi.
Tỳ kheo vội bảo:
– Nhân giả thọ giới thứ tư “Không vọng ngữ” mà đã vội quên. Trước khi nói lời gì phải suy nghĩ chín chắn xem có đúng hay không rồi sẽ nói, thế mà ngươi cao hứng quá nói ra như thế nên phạm tội nói dối. Vì người tuy làm thần, có phép biến hóa nhưng còn năm việc chưa làm nổi.
Thứ nhất là ngươi không thể trái lệnh bề trên cai trị ngươi.
Thứ hai ngươi không thể đi bảy bước từ phương Đông sang phương Tây, hay từ phương Bắc xuống phương Nam.
Thứ ba là ngươi chưa đủ sức cai quản tất cả chư vị bách linh và thống lãnh hết quyền chánh trong Tòa Ngũ Nhạc.
Thứ tư ngươi không thề chuyển đi được bốn biển.
Thứ năm ngươi không thể trốn khỏi luật vô thường.
Chính Đức Phật là bậc vô thượng Chí Tôn của Tam giới còn nhận rằng Ngài có ba điều chưa làm được thay.
– Thứ nhất Ngài không thể diệt ngay được định nghiệp.
– Thứ hai tuy Ngài biết rõ được tất cả nghiệp tánh của chúng sanh với nhân quả muôn kiếp ngàn đời của họ, nhưng Ngài không thể cứu độ được những chúng sanh vô duyên với Phật.
– Thứ ba là tuy Ngài hóa độ được vô lượng, vô biên, vô số chúng sanh nhưng Ngài cũng không độ được hết thế giới chúng sanh.
Vậy khuyên ngươi nên ngẫm điều đó mà từ đây cố gình giữ lời ăn tiếng nói kẻo mắc lấy khẩu nghiệp.
Thần Nhạc Đế cúi lễ Giới Sư nguyện sám hối và thưa rằng:
– Tôi nhờ Thầy chỉ dạy lý huyền của Đạo vô thường như kẻ đi đêm được nhờ ánh sang soi đường. Thật là một điều duyên phúc lớn vậy. Từ nay tôi xin tình nguyện hiến dâng này để Thấy sai khiến gọi là đền đáp ân nghĩa.
Thầy Nguyên Khuê vội chối từ:
– Bấy lâu nay trong tâm ta đã rỗng không mà ngoài cảnh ta vẫn tịch, ta còn mong mỏi gì hơn mà nói đến ân nghĩa.
Nhạc Đến thưa:
– Đức Phật còn hoan hỷ cho Chư Thiên Bát Bộ hộ pháp Ngài, nay mặc dù Thầy không lưu tâm đến chuyện đền ân trả nghĩa nên lòng tôi phát nguyện muốn để lại chút kỉ niệm với Thầy trong cảnh Già lam.
Giới Sư mỉm cười và sau đó Thần Nhạc Đế dùng phép thần thông biến nơi am cỏ của Tỳ kheo thành một nơi đầy hoa lá tốt tươi, hương thơm bóng mát, phong cảnh thật là thanh khiết u tịnh để đền ơn vị giới sư đã giác ngộ mình…
Trích NIÊN LỊCH P.G
Giới luật còn đạo pháp còn.
Phật xử kiện
Có một người đàn bà bồng một đứa bé đến hồ sen của Đức Mahasadha để rửa tay cho nó. Sau khi rửa rái cho con và để con ngồi trên đống áo quần khô, người đàn bà ấy xuống hồ tắm rửa.
Lúc bấy giờ, một con quỷ Dạ Xoa cái trông thấy và thèm ăn thịt đứa bé. Nó liền biến thành một người đàn bà và đến nói với mẹ đứa bé rằng:
– Chị ơi, thằng nhỏ dễ thương quá! Phải con chị không?
– Vâng con tôi đấy.
– Tôi cho nó bú nhé?
– Được, chị cứ cho.
Lúc ấy con quỷ ẵm đứa bé lên, nâng niu rồi bồng đi mất.
Trông thấy con mình bị người lạ mặt bồng đi, mẹ đứa bé đuổi theo và la lên:
– Chị, chị đem con tôi đi đâu đấy?
– Sao, con chị à? Đây là con của tôi.
Hai người đàn bà tranh chấp nhau về đứa bé.
Từ trong nhà nghe tiếng cãi cọ ồn ào, Đức Mahosadha gọi họ và hỏi:
– Có chuyện gì xảy ra đấy?
Sau khi biết được lý do của cuộc tranh chấp và nhận ra con quỷ Dạ Xoa cái qua đôi mắt đỏ ngầu và thân hình không in bóng của nó, Đức Mahosadha hỏi thêm:
– Các ngươi có muốn ta phân xử việc này không?
– Xin Ngài phân xử cho.
Đức Mahosadha gạch một đường thẳng trên mặt đất, đặt đứa bé nằm cân phân trên đường thẳng ấy và bảo con quỷ cầm hai tay đứa bé, mẹ nó cầm hai chân đoạn Ngài hô lên:
– Hai người kéo đi. Đứa bé sẽ thuộc về người kéo được nó.
Hai người đàn bà nong sức kéo, đứa bé đau quá ré lên khóc.
Mẹ đứa bé, vì quá thương con, không kéo được nữa và đứng khóc.
Đức Mahosadha hỏi mọi người chung quanh:
– Trong hai người, mẹ ruột và người dưng, ai là kẻ thương yêu đứa bé?
– Kính thưa Ngài, mẹ ruột.
– Và ai là người mẹ của đứa bé? Người giữ đứa bé hay là người thả đứa bé?
– Kính Bạch Ngài, người thả đứa bé.
– Các ngươi có biết người ăn cắp đứa bé nầy không?
– Kính Ngài, chúng con không biết được.
– Đấy chính là một con quỷ Dạ Xoa cái, nó đã ăn cắp và định ăn thịt đứa bé.
– Kính Bạch Ngài, tại sao Ngài biết?
– Bởi vì đôi mắt của nó đỏ ngầu, thân hình của nó không có bóng, nó không có một chút tình thương đối với đứa bé và kéo đứa bé một cách tàn nhẫn.
Bấy giờ Đức Mahosadha mới hỏi con quỷ Dạ xoa cái:
– Mầy là ai?
– Tôi là quỷ Dạ Xoa.
– Tại sao mầy ăn cắp đứa bé?
– Để ăn thịt nó.
– Vì mê muội, kiếp trước mầy đã phạm nhiều tội ác và phải đầu thai làm quỷ. Thế mà ngày nay mầy vẫn tiếp tục phạm tội ác. Ngu si lầm lạc như thế thật là quá đỗi.
Sau khi ban dạy những lời vàng ngọc trên, Đức Mahosadha quy y cho con quỷ Dạ Xoa trước khi nó từ giã.
Mẹ của đứa bé hướng về Đức Mahosadha và bạch rằng:
– Kính Bạch Ngài, con xin kính chúc Ngài được trường thọ.
Rồi với đứa con trong tay và niềm hoan hỷ trong lòng, người đàn bà bái biệt Đức Mahosadha…
THIỆN CHÂU
Không bố thí tiền của, không bố thí pháp, không bố thí vô úy, thường ôm lòng tham lam ganh ghét, do nhân duyên ấy sẽ sanh vào cõi ngạ quỷ.
Thầy THÍCH MINH CHIẾU sưu tập
http://4phuong.net/ebook/32252207/120343037/tap-ii-10.html