Thiền Ngay Bây Giờ – Phần 2

22 Rama, hóa thân của Víshnou, là đối tượng thờ cúng rất phổ biến của Ấn Độ giáo.

23  Sikhs-đạo Sikh, một tôn giáo ở Ấn Độ, do Nanak lập ra đầu thế kỷ XVI.

Đây không phải là lời dạy của Đức Phật. Nó mang tính chất bộ phái, vì bất cứ khi nào người ta được cho một từ nào đó để đọc, từ đó hầu như luôn luôn phải là một từ mang tính bộ phái. Làm thế nào một người không phải Phật tử có thể đọc “Buddha, Buddha” được? Tất nhiên niệm thầm “Buddha, Buddha,” như vậy tâm sẽ được tập trung. Cũng thế, nếu bạn đọc, “Rama, Rama…” Tâm bạn sẽ được tập trung. Bạn cũng có thể đọc, “Christ, Christ…” tâm bạn sẽ được tập trung. Nếu bạn đọc, “Allah, Allah24…” tâm sẽ được tập trung. Nhưng những từ ấy là những từ thuộc bộ phái và đạo lộ của Đức Phật phải duy trì tính chất phổ quát. Ngay cả nếu bạn dùng một từ thông thường, như, “đồng hồ, đồng hồ, đồng hồ,” tâm bạn cũng sẽ được tập trung. Nếu bạn cứ lặp đi lặp lại bất cứ một từ nào một cách liên tục, tâm bạn sẽ được tập trung. Đây là quy luật tự nhiên. Song Đức Phật không hề cho đệ tử mình bất cứ một từ nào để tập trung cả.

Hướng dẫn của Đức Phật để tập trung tâm là quan sát hơi thở, chỉ hơi thở, hơi thở tự nhiên. Hơi thở thì không thể nào là Ấn giáo, hơi thở thì không thể nào là Hồi giáo, hơi thở thì không thể nào là Thiên Chúa giáo. Bạn không thể gán cho nó một danh hiệu nào cả. Người này đang thở: Liệu chúng ta có thể nói hơi thở của anh ta là hơi thở Hồi giáo, đó có phải là hơi thở Hồi giáo không? Không. Hơi thở là hơi thở, hơi thở tự nhiên. Đề mục thiền của Đức Phật rất là phổ quát.

24 Allah tên gọi Thượng đế trong Hồi giáo. Thực thể tối cao duy nhất được sùng kính.

Trong sự hướng dẫn của tôi, ở khắp mọi nơi trên thế giới, tôi thấy người ta đến từ các bộ phái khác nhau, các cộng đồng khác nhau, các tín ngưỡng khác nhau. Tôi yêu cầu họ quan sát hơi thở. Điều đó không đi ngược lại với tôn giáo của họ và họ chấp nhận nó, “Vâng, quan sát hơi thở không đi ngược lại với tôn giáo của tôi.” Nếu, cùng với hơi thở, tôi lại hướng dẫn họ, “Bạn phải đọc, (Namo tasa bhagavato25…)”, nhiều người hẳn sẽ phản ứng. “Ồ không, không, tôi không thể đọc câu này”. Nhưng nếu tôi bảo họ, “Chỉ quan sát hơi thở,” thì lúc đó vâng, họ sẵn sàng chấp nhận nó.

25 Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa – Thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, đấng Chánh Biến Tri.

Một cách tập trung khác rất phổ biến thời Đức Phật, và nó vẫn còn tiếp tục đến hôm nay. Cùng với hơi thở người hành thiền tưởng tượng ra một hình ảnh nào đó – có thể đó là hình ảnh của một vị thần, một bậc thánh, một bậc sáng lập tôn giáo này hay tôn giáo nọ. Ở đây cũng thế, ngay khi người ta tưởng tượng ra hình ảnh này hay hình ảnh nọ, thì nó đã trở thành bộ phái, vì hình ảnh thì luôn luôn phải thuộc về một bộ phái đặc biệt nào đó. Không làm gì cả! Đức Phật nói không có hình ảnh, không niệm thầm, không mường tượng, không tưởng tượng gì cả.

Yathābhūta đāna dassanam (tri kiến như thực, chứng ngộ sự thực như nó đang là). Đây là lời dạy của Đức Phật. Yathābhūta: Như nó đang xảy ra vào lúc ấy, hay như nó đang là. Hơi thở đã đi vào. Đó là tất cả. Hơi thở đã đi ra. Đó là tất cả. Nếu nó sâu bạn chỉ việc biết rằng nó sâu. Nếu nó không sâu, bạn chỉ việc biết rằng nó không sâu. Bạn không can thiệp vào cái dòng chảy tự nhiên của hơi thở tự nhiên ấy. Nếu nó đi qua mũi trái, bạn chỉ việc biết: Nó đang qua mũi trái. Nếu nó đi qua mũi phải, bạn chỉ việc biết rằng nó đang đi qua mũi phải. Nếu nó đi qua cả hai mũi, bạn chỉ việc biết như vậy. Công việc của bạn là phát triển khả năng hay biết của mình. Bạn được yêu cầu phải giữ sự chú ý ở lối vào lỗ mũi.

Trong ba ngày bạn duy trì việc thực hành một cách liên tục bởi vì không có việc gì khác được phép trong một khóa thiền Vipassanā. Từ 4 giờ hoặc 4 giờ 30 sáng cho đến 9 giờ hoặc 9 giờ 30 tối, bạn không được phép đọc, không được phép thảo luận, không được phép tranh luận, không báo chí, không TV, không radio; không có gì khác ngoài việc hành thiền. Bạn chỉ việc quan sát chính mình. Đọc báo thì sẽ như thế nào? Đọc báo sẽ làm cho bạn bị hướng ngoại nhiều hơn. Nếu bạn đã hướng ngoại rồi thì bạn không thể quan sát chính mình như Đức Phật muốn bạn phải làm được. Vì thế không được phép để cho có những sự phân tâm như vậy, không để cho có những sự khuấy động từ bên ngoài như vậy. Bạn chỉ giản dị quan sát hơi thở của chính mình. Bạn quan sát hơi thở của mình và bạn được yêu cầu phải hay biết cái vùng này – lối vào lỗ mũi ở đây hơi thở đi vào, đi ra.

Một ngày, hai ngày, ba ngày trôi qua, lúc đó bạn để ý thấy rằng ngoài hơi thở đi vào và đi ra này, còn có một cái gì đó khác nữa đang xảy ra. Cái gì đang xảy ra? Phản ứng sinh hóa thế này hay thế khác. Mỗi khoảnh khắc một phản ứng sinh hóa nào đó xảy ra ở khắp toàn thân bạn, nhưng ở mức ý thức bạn không hay biết điều này. Ở mức sâu hơn, tâm bạn cứ tiếp tục cảm giác những dòng chảy sinh hóa này và cứ tiếp tục phản ứng lại với chúng. Có một cảm thọ nào đó đang xảy ra ở khắp nơi trên thân bạn. Nó có thể là sức nóng hay sự chảy mồ hôi; nó có thể là nhịp tim đập, nhịp mạch máu đập, ngứa, nhột, hay một điều gì khác đang xảy ra. Nhưng bạn được hướng dẫn là cứ giữ sự chú ý của bạn trên vùng lỗ mũi mà thôi.

Vào ngày thứ ba bạn bắt đầu cảm giác có cái gì đó đang xảy ra ở đây (nơi vùng dưới lỗ mũi). Một lần nữa, thầy của bạn sẽ nói, “Chỉ quan sát. Không làm gì cả. Nếu có ngứa, chỉ quan sát. Đừng gãi. Đừng chà nó. Chỉ quan sát cái ngứa. Xem nó kéo dài bao lâu.” Bạn quan sát, quan sát, quan sát… và nó diệt mất. Không có cái ngứa nào bất diệt cả; nó không ở lại mãi mãi. Cái ngứa có khi tăng và giảm, và không sớm thì muộn nó cũng ra đi. “Ôi, vô thường (anicca). Ôi, vô thường. Cuối cùng, nó diệt mất; sớm hay muộn gì thì nó cũng diệt mất.,” Bạn hiểu ra tính chất vô thường. Giống như cái ngứa này, mọi thứ sanh lên để rồi diệt, sanh để rồi diệt; nó sanh để rồi diệt.

Lúc đầu bạn tập trung trên vùng ngay lối vào lỗ mũi. Khi bạn đạt đến ngày thứ tư hay thứ năm, bạn bắt đầu khám phá toàn bộ cấu trúc vật lý và bạn sẽ thấy ra rằng ở khắp mọi nơi đều có cảm thọ, hoặc thế này hay thế khác. Không một phân tử nào, không một phân tử bé nhất nào trên thân, ở đây lại không có cảm thọ. Ở đâu có sự sống, ở đó có cảm thọ. Một lần nữa, bạn chỉ việc quan sát: yathābhūta đāna dassanam (thấy biết đúng như thực). Bạn không đồng nhất mình với cảm thọ này. Bạn không cần thiết phải đặt tên cho cảm thọ này. Thay vì đặt tên, bạn hãy hiểu bản chất của nó. Bất cứ thọ nào sanh lên, bạn đã luyện tập cách quan sát: “Hãy để ta xem nó kéo dài bao lâu. Hãy để ta xem nó kéo dài bao lâu.” Và bạn thấy rằng không sớm thì muộn nó cũng diệt: anicca, anicca, vô thường, vô thường. Đức Phật muốn bạn hiểu tính chất vô thường này ở mức kinh nghiệm. Nếu bạn chỉ hiểu nó ở mức tri thức – “Thế đấy, mọi thứ trên cuộc đời này đều vô thường. Nhìn xem, người ta sinh ra rồi chết như thế nào. Những tòa nhà kia được dựng lên rồi sau đó lại bị phá hủy ra sao. Ôi, mọi thứ đều vô thường” – đây chỉ là sự hiểu biết thuần tri thức; nó không phải là passa-jana (kinh nghiệm trực tiếp) mà Đức Phật muốn bạn có. Với Vipassanā bạn phải hiểu, “Nhìn xem, rất nhanh là vô thường như thế nào, rất nhanh là phù du ra sao! Sanh, diệt; sanh diệt, không ngừng sanh, diệt; sanh, diệt. Khắp nơi trên cấu trúc vật lý này đều sanh, diệt; sanh, diệt.”

Điều này cũng là phổ quát. Đây không phải là cái gì Đức Phật tạo ra cho bạn, cho tôi hay cho bất kỳ ai khác. Đây là điều xác thực đối với mọi người nhưng người ta không có con mắt trí tuệ (tuệ nhãn). Họ không có kỹ thuật Vipassanā này để cảm nhận được tiến trình tương tác của tâm và vật chất hay danh và sắc – sanh, tiến trình sanh, diệt; Sanh, diệt; Sanh, diệt. Và đây là đặc sản của giáo pháp Đức Phật. Như tôi đã nói, trong truyền thống mà từ đó tôi xuất thân, lời dạy như vậy đã có: “Bạn phải thoát khỏi tham ái – rāga”; trong lời dạy đó vītarāga (ly tham) là mục đích cao tột nhất. “Bạn phải thoát khỏi sân hận”; vītadosa (ly sân) thoát khỏi sân là mục đích cao cả nhất. “Bạn phải thoát khỏi si mê”; vītamoha (ly si) thoát khỏi si mê là mục đích cao tột nhất. Tôi thường đọc tụng những lời dạy đó trong Gita26. Tôi thường đọc tụng những lời ấy trong các kinh điển Upanishads khác của Vedanta27. Nhưng làm thế nào để thoát khỏi tham ái – rāga? Làm thế nào để thoát khỏi sân hận – dosa? Làm thế nào để thoát khỏi si mê? Những lời ấy chẳng qua chỉ là những bài thuyết giáo: “Ôi, ngươi là người trần gian, ngươi phải thoát khỏi tham; tham này rất nguy hiểm đối với ngươi. Ôi, ngươi là người trần gian, ngươi phải thoát khỏi sân; sân này rất nguy hiểm đối với ngươi. Là người trần gian, ngươi phải thoát khỏi si; nó là cái rất nguy hiểm đối với ngươi.”

26 Gita (Bhagavad Gita) hay Bài ca của Người Chân Phúc, Krishna.

27 Upanishad-Kinh (Veda và Ấn Độ giáo). Những luận văn về học thuyết bí ẩn, đỉnh cao của Veda và cơ sở của Ấn Độ giáo. Vedanta: Một trong sáu hệ thống tư biện của đạo Bà la môn.

Nếu Đức Phật cũng chỉ nói như vậy, thì sẽ không có gì khác giữa Đức Phật và các vị đạo sư khác. Đức Phật dạy chúng ta cách làm thế nào để thoát khỏi khổ đau của chúng ta: “Hãy xem, đây là kỹ thuật. Tham bắt đầu ở đâu, bạn phải đi vào chiều sâu chỗ mà tham được phát ra. Sân bắt đầu ở đâu, bạn phải đi vào chiều sâu để thấy nó bắt đầu như thế nào.” Nhờ thực hành Vipassanā bạn sẽ hiểu được điều đó. Lúc đầu bạn sẽ kinh nghiệm những cảm thọ rất khó chịu (thọ khổ), những cảm thọ thô và kiên cứng giống như sự nặng nề, sức ép hay sức nóng. Nhưng nếu bạn tiếp tục quan sát, quan sát, quan sát, bạn sẽ thấy rằng chúng bị phân tán ra, bị hòa tan ra. Và rồi bạn gặp những rung động rất vi tế ở khắp toàn thân. Chẳng có gì ngoài một dòng chảy của những rung động vi tế rất dễ chịu. Bạn cảm thấy giống như càng lúc càng nhiều thêm. Các thiền sinh giữa khóa thiền đi đến tôi và nói, “Ồ, thật kỳ diệu! Ôi thưa ngài Goenka, buổi thiền hôm nay thật là kỳ diệu. Tôi kinh nghiệm một dòng chảy tự do, rất nhiều phỉ lạc (pīti). Thật tuyệt diệu! Thật tuyệt diệu!”.

Ở điểm này chúng ta phải nhớ những lời dạy của Đức Phật – ādīnava (nguy hiểm), bhaya (đáng sợ). Đây là điều nguy hiểm đối với bạn. Khi bạn bắt đầu kinh nghiệm những cảm thọ dễ chịu hay thọ lạc, nếu có assada (ái vị, vị ngọt), thì một sự nguy hiểm rất lớn đã đến. Bạn bắt đầu phát ra tham ái đối với nó (cảm thọ lạc). Bạn bắt đầu bị dính mắc hay chấp thủ vào nó; và rồi, ngay khi bạn trượt khỏi cái dòng chảy dễ chịu của cảm thọ này, bạn sẽ chạy đến tôi. “Ôi, thiền của con đã trở nên rất tồi tệ rồi. Xin ngài hoan hỷ làm một cái gì đó. Con không còn cảm nhận được cái dòng chảy kỳ diệu đó nữa.” Đây là sự nguy hiểm. Vì thế khi bạn cảm giác một dòng-cảm thọ dễ chịu ở khắp toàn thân người thầy sẽ nhắc bạn, “Anicca, vô thường. Hãy coi chừng, đây cũng là vô thường.”

Samudaya dhammānupassī vā kāyasmim viharati.

Vaya dhammānupassī vā kāyasmim viharatī

Samudayavayadhammānupassī vā kāyassmim viharatī

Người hành thiền sống (trú) quan sát hiện tượng sanh trong thân.

Vị ấy sống quan sát hiện tượng diệt trong thân.

Vị ấy sống quan sát hiện tượng sanh và diệt cùng một lúc trong thân.

Khi bạn kinh nghiệm cảm thọ thô, thì – samudaya dhammānupassī viharati (sống quan sát hiện tượng sanh) có mặt. Sau một lúc, vaya dhammānupassī viharati (sống quan sát hiện tượng diệt) nhìn này, nó đã khởi lên, và sau một lúc, nó lại diệt. Nhưng rồi đến một giai đoạn khi nó chuyển sang sự rung động rất vi tế. Sự thay đổi này xảy ra với vận tốc rất cao – samudayavayadhammānupassī viharati (sống quan sát hiện tượng sanh và diệt cùng một lúc). Hầu như không có khe hở giữa samudaya (sanh) và vaya (diệt). Nhưng nó hoàn toàn vô thường (anicca). Dù nó diệt sau một lúc hay nó diệt tức thời, nó cũng là diệt. Nó không thường hằng. Kinh nghiệm được điều này bạn bắt đầu thay đổi mô thức thói quen của tâm.

Trừ phi bạn đi vào chiều sâu của tâm, bằng không bạn không thể thay đổi được mô thức thói quen của nó ở mức sâu kín nhất. Đây là những gì Đức Phật đã phát hiện khi đang hành cả tám bậc thiền hiệp thế – các phiền não tùy miên hay bất tịnh ngủ ngầm (anusaya kilesa) vẫn còn nguyên.

Những phiền não ngủ ngầm này là mô thức cư xử của tâm từ bao nhiêu đời nay và chúng sẽ tiếp tục trong các đời tương lai trừ phi bạn đánh vào tận gốc, trừ phi bạn cắt đứt cái gốc đó. Bằng không thì không thể nào giải thoát được.

Thực hành những thiền hiệp thế (lokiya jhāna) này, bạn có thể hưởng được trạng thái xuất thần kỳ diệu, trạng thái vốn đem lại sự thanh tịnh tâm ở mức bề mặt. Với cái lớp thanh tịnh tâm này, sau khi chết bạn có thể sanh về cõi thiền tương ưng; nhưng bạn vẫn còn lăn quay (trong luân hồi).

Bạn đang lăn quay trong thế gian. Bạn không thể nào vượt qua đó. Chỉ khi bạn cắt đứt gốc rễ – gốc rễ của tất cả phiền não tùy miên, nơi đây những bất tịnh khởi lên – chỉ khi đó bạn mới được giải thoát.

Hiểu rằng có một rào cản lớn giữa cái gọi là “tâm ý thức” và những gì các tâm lý gia phương Tây xem là tiềm thức hay tâm vô thức. Đức Phật không bao giờ dùng những từ này vì thực ra không có phần nào của tâm là vô thức cả. Những gì người ta gọi là “tâm ý thức” ngài gọi là tâm nhỏ (paritta citta), một phần rất nhỏ của tâm.

Nhưng tuy nhiên, nếu bạn hiểu thuật ngữ tâm lý phương Tây, thì cứ gọi chúng là ý thức, tiềm thức, vô thức cũng được. Cả ngày lẫn đêm, cái gọi là tâm vô thức luôn hay biết những cảm thọ này trong tham – cả ngày lẫn đêm, từng mỗi sátna. Và không chỉ hay biết thôi; nó còn đang phản ứng lại với chúng trong từng sátna. Điều đó có nghĩa là nó đang làm tăng trưởng thêm cho mô thức ứng xử của tham; của sân; của tham, của sân. Hoặc các cảm thọ dễ chịu (thọ lạc), hoặc các cảm thọ khó chịu (thọ khổ), và phần tâm vô thức này cứ mãi tiếp tục phản ứng, phản ứng. Tâm ý thức hoàn toàn không biết những gì đang xảy ra ấy. Phần tâm nhỏ này ở bề mặt hoàn toàn không hay biết gì cả.

Một ví dụ, ban đêm bạn đi ngủ. Bạn đang trong giấc ngủ say. Ai đang ngủ say? Tâm ý thức đang ngủ say. Nhưng cái gọi là tâm vô thức không bao giờ ngủ. Nó không ngừng tiếp xúc với các cảm thọ của thân này. Bạn đang ngủ say. Một con muỗi bay đến và chích bạn. Tâm vô thức liền cảm giác – có một cảm thọ khổ – và nó phản ứng. Nó sẽ đuổi con muỗi đi hoặc giết chết con muỗi ấy. Tuy nhiên, cảm thọ khó chịu này vẫn tiếp tục. Bây giờ nó sẽ gãi và tâm ý thức hoàn toàn không biết gì cả. Sáng ra nếu có ai hỏi, “đêm qua, bao nhiêu con muỗi chích bạn?” Bạn không biết. Bạn sẽ không biết gì về nó, tuy vậy suốt cả đêm bạn lại đang phản ứng với những vết cắn của muỗi này.

Và điều đó không chỉ xảy ra vào ban đêm. Rào cản này lúc nào cũng có đó, hai mươi bốn giờ một ngày. Chẳng hạn ngay lúc này tôi đang ngồi. Nếu tôi là thiền sinh Vipassanā tốt, cái gì xảy ra? Trong khi tôi đang nói, tâm ý thức của tôi làm việc: “Xem chừng, tôi đã nói quá nhiều rồi đấy. Bây giờ tôi phải kết thúc theo cách này. Thời giờ có hạn. Tôi phải chấm dứt buổi nói chuyện ở đây. Và những gì tôi nói – không biết người ta có lắng nghe không? Họ có hiểu không hay là họ cảm thấy phát chán? Họ bắt đầu ngáp? Họ đang xem đồng hồ. Tôi phải ngưng nói ngay.” Tâm ý thức của tôi đang làm công việc này. Tâm vô thức hoàn toàn không liên quan gì với nó. Tâm vô thức bận cảm giác các cảm thọ. Ngồi một giờ đồng hồ trong một tư thế với sức nặng như thế này, một áp lực bắt đầu xuất hiện ở đâu đó trên thân tôi. Khi sức ép khởi động thì tâm vô thức này liền nói, “Tôi không thích nó. Tốt hơn ông nên cử động.” Thế là tôi xê dịch một chút. Sau một lúc sức ép khác lại xuất hiện. Một lần nữa tôi nhúc nhích. Có thể vài chỗ ngứa nổi lên và tự động tôi gãi nó. Tâm ý thức của tôi không biết những gì tôi đang làm. Thử quan sát một người nào đó. Cứ theo dõi anh ta hay cô ta trong vòng 15 phút. Không làm gì cả: chỉ quan sát người đó. Bạn sẽ để ý thấy anh ta hay cô ta thay đổi thường xuyên như thế nào và hết xê bên này lại dịch bên kia ra sao. Anh ta đang làm gì? Ngay cả chính bản thân anh ta cũng chẳng biết những gì mình đang làm. Điều này là do có một rào cản lớn giữa ý thức và phần vô thức của tâm. Tâm ý thức bận rộn với rất nhiều thứ. Trong khi tâm vô thức chỉ bận tâm cảm giác các cảm thọ và phản ứng, cảm giác các cảm thọ và phản ứng.

Rào cản này cần phải phá bỏ. Tất nhiên, có thể bạn vẫn có sự hiểu biết trên mặt lý trí rằng: “Ồ các pháp là vô thường (anicca), các pháp là vô thường, không nên để cho có tham (lobha), không nên để cho có sân (dosa).” Vậy mà vẫn có tham, vẫn có sân. Tâm này, tâm vô thức này không hiểu rằng đây là vô thường. Khi có sự đau đớn, nó không thích cái đau ấy: “Ồ cái này khó chịu quá. Ta không thích nó.” Nó cứ tiếp tục phản ứng. Giờ đây, với Vipassanā, bạn đi vào chiều sâu nơi tâm cảm giác các cảm thọ của thân. Chính ở mức các cảm thọ của thân mà tâm vô thức đang phản ứng; cũng chính ở mức này bạn có thể dừng lại tâm vô thức không cho phản ứng. Bất cứ điều gì có thể đã được hiểu ở mức tri thức, giờ đây cái tâm điên khùng này, cái tâm mù quáng này, cũng bắt đầu hiểu: “Nhìn xem – thọ là vô thường. Nhìn xem, các cảm thọ này là vô thường.” Lúc đó mô thức ứng xử ở chiều sâu của tâm bắt đầu thay đổi.

Pháp Duyên Sanh (paticcasamuppāda) này là sự giác ngộ của Đức Phật. Ngài nói: Dù cho Đức Phật có hiện diện hay không, pháp duyên sanh vẫn luôn luôn có đó. Các vị đạo sư khác thì nói, “Này các người, đối với bất cứ điều gì khả lạc mà các người thấy chớ đừng phản ứng lại với tham, hoặc đối với bất luận điều gì vừa ý mà các người nghe, hoặc bất luận điều gì dễ chịu mà các người ngửi, nếm, đụng, suy nghĩ. Các người chớ để phản ứng với tham. Hoặc, có thể có bất cứ một kinh nghiệm khó chịu nào, một điều gì mà các người thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, hay suy nghĩ – đừng để cho có sân.”

Lời dạy này còn đó. Ngay cả ngày nay nhiều người cũng đang giảng như vậy.

Đức Phật phát hiện ra rằng có một khe hở giữa đối tượng bên ngoài tiếp xúc với sáu căn và phản ứng tham hoặc sân. Ngài đã khám phá ra một mắt xích bị bỏ quên, và mắt xích đó là vedanā (thọ), cảm thọ trên thân.

Salāyatana paccayā phasso,

(Lục nhập hay sáu căn duyên cho xúc)

Phassa paccayā vedanā,

(Xúc duyên cho thọ)

Vedanā paccayā tanhā.

(Thọ duyên cho ái.)

Tôi có thể nghĩ rằng mình đã thoát khỏi tham ái hay sân hận khi tôi nghe điều gì dễ chịu hoặc khó chịu, nhưng tận sâu bên trong nơi những cảm thọ đã bắt đầu, tâm tôi vẫn tiếp tục phản ứng. Ở tận sâu bên trong nó vẫn tiếp tục phản ứng. Nếu tôi không làm việc với mắt xích vốn ở sâu hơn sự hiểu biết tri thức nông cạn của tôi này, tôi không thể thoát ra khỏi khổ đau bởi vì tôi không thể thay đổi mô thức thói quen phản ứng của tâm tôi. Đây là những gì Đức Phật đã khám phá ra: Salāyatana paccayā phasso – do sáu căn, có xúc. Phassa paccayā vedanā – do xúc, có thọ. Khi có một sự xúc chạm ở nhĩ căn, hay nhãn căn, hay tỷ căn, hay thiệt căn, hay thân căn, hay ý căn – nhất định phải có cảm thọ (vedanā) trên thân. Lúc đó vedanā paccayā tanhā: chỉ sau khi có thọ, ái hay tham và sân mới khởi lên. Nếu bạn bỏ qua thọ, làm thế nào bạn biết được ái (tanhā) bắt đầu ở đâu? Thậm chí bạn còn không biết rằng ái đã bắt đầu nữa. Ở mức bề mặt của tâm bạn có thể cố gắng tránh xa những phiền não, nhưng ở tận sâu bên trong, rất lâu trước khi sự phản ứng trở nên đủ mạnh để trồi lên mức ý thức, nó đã cột quá nhiều gút thắt, quá nhiều gút thắt! Mô thức thói quen càng ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn. Bạn không thể nào thoát ra khỏi nó bằng cách chỉ làm việc ở mức tri thức.

Cái đẹp trong lời dạy của Đức Phật là ở chỗ ngài đã đưa ra kỹ thuật Minh Sát, kỹ thuật thực hành mang tính phổ quát và tuyệt diệu này. Bất kỳ ai đi vào được chiều sâu và nhổ hết gốc rễ của mọi bất tịnh ra đều tiếng con người giải thoát, và họ có thể cứ tiếp tục tự gọi mình bằng tên gì cũng được. Điều đó không quan trọng. Còn ai không thể chọc thủng hay thể nhập vào được chiều sâu này sẽ tiếp tục lăn trôi trong khổ đau. Quy luật này là phổ quát, có thể áp dụng được cho tất cả mọi người. Đức Phật đã tái khám phá ra quy luật này, sử dụng nó cho bản thân ngài để trở thành bậc giải thoát và sau đó đem ban phát nó cho mọi người với vô vàn lòng từ ái và bi mẫn của ngài. Khi người ta bắt đầu thực hành, họ cũng được lợi ích từ nó.

Con người của đảo quốc kỳ diệu này, tôi vô cùng hoan hỷ khi thấy các bạn có đức tin thật nhiều nơi Đức Phật. Các bạn ngưỡng mộ Đức Phật. Các bạn ngưỡng mộ giáo pháp của Đức Phật. Do đó căn bản của các bạn đã là tuyệt diệu rồi. Tất cả các bạn đều có hạt giống của Pháp (Dhamma) trong mình. Bằng không thì, hẳn là các bạn đã không đến với một buổi nói chuyện như thế này. Có thể giờ này các bạn đang có mặt trong một rạp hát hay một rạp xinê hay một phòng nhảy nào đó hoặc có mặt ở một nơi nào khác không chừng.

Các bạn đang ở đây. Điều đó chứng tỏ rằng các bạn đã có hạt giống Pháp trong mình. Nhưng nếu suốt cuộc đời hạt giống cũng vẫn chỉ là hạt giống, bạn sẽ không được gì cả. Hạt giống phải mọc lên và cho ra những trái tuyệt vời. Và chắc chắn hạt giống của các bạn có thể cho ra những trái tuyệt vời này. Tôi mời tất cả các bạn. Như Đức Phật nói, “Hãy cho tôi bảy ngày của đời bạn. Chỉ để cho một cuộc thử thách.” Tôi không phải là một vị Phật. Tôi nói, “Hãy cho tôi mười ngày của đời bạn và cố gắng. Chỉ để cố gắng.” Hãy chấp nhận nó chỉ sau khi bạn đã trải qua mười ngày này. Bạn sẽ thấy rằng con đường của Đức Phật thực sự lợi ích – con đường đó cho ra những kết quả, akāliko28, ngay trong hiện tại này.

28 Akāliko là một trong sáu ân đức Pháp (Svākkhāto bhagavatā dhammo sanditthiko akālilko ehipassiko opanayiko paccattam veditabbo viđđūhi, giáo pháp mà Đức Thế Tôn khéo thuyết giảng, thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để thấy, hướng thượng, cần được người trí tự chứng.)

Bạn sẽ không phải chờ cho đến sau khi chết. Bạn sẽ được lợi ích ngay ở đây và bây giờ, và sẽ mãi mãi được lợi ích.

Idha nandati pecca nandati, katapuđđo ubhayatta nandati

Ngay hiện tại người ấy hoan hỷ, sau khi chết người ấy hoan hỷ, trong cả hai nơi người làm điều phước thiện đều được hoan hỷ.

Giây phút bạn bắt đầu thực hành Pháp (Dhamma), bạn sẽ thấy rằng bạn đang được lợi ích. Lúc đầu, lợi ích; giữa chừng, lợi ích; và cuối cùng, lợi ích. Tất nhiên là có lợi ích chỉ khi bạn thực hành mà thôi.

Tôi hy vọng tất cả các bạn, không sớm thì muộn, sẽ tìm được thời gian để bắt đầu thực hành lời dạy của Đức Phật. Các bạn đã thỏa mãn được nhiều thú tiêu khiển về tri thức rồi. Ngày hôm nay các bạn cũng đã được nghe cả một giờ, cái ấy cũng chỉ là thú tiêu khiển về tri thức. Nhưng bây giờ hãy lấy một giờ này và biến nó thành quyết tâm mạnh mẽ rằng bất cứ khi nào bạn tìm được thời gian, bạn sẽ trải qua một khóa hành thiền mười ngày liền.

Cầu mong tất cả các bạn đều được trải qua khóa hành thiền mười ngày.

Cầu mong tất cả các bạn gặt hái được lợi ích tốt nhất từ lời dạy của Đức Phật, gặt hái được những thành quả tốt đẹp nhất từ lời dạy của Đức Phật.

Cầu mong tất cả các bạn hưởng được sự bình an thực sự, hòa hợp thực sự, hạnh phúc thực sự.

Thiền Sư Goenka, Tỳ khưu Pháp Thông dịch

http://khemarama.com/thiền-ngay-bay-giờ/

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.