Ánh Sáng Đạo Pháp

Chiều Chủ Nhật

Buổi sáng nay tôi đã trình bày vấn đề tại sao khi chúng ta có kinh nghiệm hài lòng, chúng ta vui, và khi chúng ta có một kinh nghiệm không được hài lòng chúng ta lại buồn. Tôi đã nói đây là một quan niệm sai lầm. Qúy vị sẽ ngạc nhiên lắm; điều này có vẻ bất thường đối với qúy vị, nó hoàn toàn không thực tế chút nào cả, phải không?

Người Tây phương nghĩ rằng đây là một việc xẩy ra rất tự nhiên, khi họ vui, “Ồ, tôi sung sướng,” và khi không được thoải mái họ liền than, “Oâi, tôi chán qúa.” Nó được coi như một sự tự nhiên của người Tây phương, nhưng Phật giáo nói rằng đó là một quan niệm sai lầm, vậy chúng ta phải làm cái gì đây? Oâng sư này đã làm qúy vị phát điên lên thay vì mang lại sự vui tươi cho qúy vị.

Ðây, tôi sẽ giải thích cái quan niệm bất thường này cho qúy vị đây. Sự kiện xẩy ra như thế này: khi chúng ta có sự hài lòng, chúng ta liền bám viú, chúng ta liền bám chặt nó không để cho nó đi, chúng ta muốn niềm vui kéo dài mãi. Ðây là kinh nghiệm của người Thụy điển hay không phải? Khi chúng ta thỏa mãn, có phải tâm của chúng ta bắt đầu ham muốn và bám chặt nó thay vì chỉ kinh nghiệm nó rồi để nó ra đi không? Ðó là vấn đề. Ðó là rắc rối.

Khi chúng ta cảm thấy không hài lòng, khi chúng ta ở trong một trạng thái không hài lòng, chúng ta cũng ham muốn. Chúng ta ham muốn được tự do, được thoát khỏi sự không hài lòng này: “Tôi không muốn cái này”. Ðó, chúng ta ham muốn đó.

Khi chúng ta có một kinh nghiệm không vui cũng không buồn, lưng chừng, dửng dưng, trì trệ, chúng ta không có trí tuệ, không có ý kiến và chúng ta lại ham muốn nữa, chúng ta muốn cho sự trì trệ này được sáng sủa ra, tươi đẹp ra. Ðó, chúng ta ham muốn đó.

Sự kiện là như vậy, chúng ta phải làm gì đây? Khóc? Tôi chắc rằng qúy vị đã nghe Lạt ma Je Tsong Khapa nói: “Còn ở trong luân hồi là còn đau khổ, còn bất mãn, là không có hạnh phúc.” Nghe ra thật đau khổ, phải không? Ngài có ý nói rằng những gì chúng ta cho là hài lòng, hạnh phúc thì không phải là chân hạnh phúc, chúng không phải là hạnh phúc thực sự.

Ngài đưa ra một thí dụ: Khi đói, chúng ta khổ. Nếu chúng ta không ăn khi chúng ta đói, cái đói sẽ lớn dần và cái cảm giác đói cũng lớn dần lớn dần, phải vậy không? Rồi khi chúng ta bắt đầu ăn, chúng ta chấm dứt được cái cảm giác đói và chúng ta bảo đó là hạnh phúc: “Ồ, đã qúa, vui rồi.” Chỉ ngưng cái cảm giác đói mà đã gọi là hạnh phúc! Chúng ta đang đối thoại phải không? Ðang nói chuyện phải không? Có? Không? Tôi không nghe rõ.

Chúng ta gọi ăn là hạnh phúc, nhưng cái thực sự làm chúng ta khoan khoái là chúng ta chấm dứt được cái cảm giác đau của cơn đói. Việc chặn đứng được cái cảm giác cồn cào làm chúng ta thốt ra, “Bây giờ tôi vui rồi, bây giờ tôi cảm thấy dễ chịu rồi.” Chúng ta vẫn đối thoại đấy chứ? Vâng!

Qúy vị có nghĩ rằng đây là hạnh phúc không? Chỉ ngưng được cái cảm giác đau vì đói, đó là hạnh phúc hay không phải hạnh phúc? Ðây thực sự là một câu hỏi cho qúy vị. Qúy vị ở đây, chỗ này, qúy vị có nghĩ rằng, chỉ ngưng được cái cảm giác đói khi bắt đầu ăn, đây là hạnh phúc hay không? Không? Ðược rồi, được rồi, hãy suy nghĩ đi. Ðây là vấn đề có tính cách khoa học, hoàn toàn không liên quan gì đến tôn giáo, vậy qúy vị nghĩ thế nào? Tôi hỏi ý kiến qúy vị ở chỗ kia: chỉ chấm dứt được cái cảm giác đói mà cho rằng cuộc đời hạnh phúc phải không? phải không? (có người trả lời, “ chỉ lúc đó thôi” ) Chỉ lúc đó thôi? Còn anh, anh nói gì? (“Không”) Không? Anh đúng.

Tôi đặt câu hỏi Phật giáo này với mấy em nhỏ, mấy em nhỏ Tây phương, các em trả lời ngay lập tức, không! Chúng trả lời đúng ngay. Khi tôi hỏi những người lớn, họ làm thế này (hếch mũi lên mũi xuống) Ðúng, tại sao? Lý do gì? Ðược rồi, anh không có câu trả lời, như vậy đủ rồi. Cám ơn qúy vị. Lạt ma Je Tsong Khapa cho thí dụ này, một thí dụ rất thông thường, thực tế. Chúng ta cũng nên hiểu một cách rất bình thuờng mới được, đừng cầu kỳ, đừng thông minh hoá. Ngài nói rằng, khi chúng ta đói bụng rồi chúng ta bắt đầu ăn, cái cảm giác khoan khoái khi bắt đầu ăn là con đường dẫn đến đau đớn. Qúy vị thấy có lý không? Với tôi, nó rất có ý nghĩa: khi tôi bắt đầu ăn cơm tối, tôi cảm thấy một chút khoan khoái, nhưng sau khi ăn tôi cảm thấy rất khó chịu — đáng tiếc thay, tôi là một nhà tu tham ăn! Dầu sao đi nữa, nó khó chịu quá.

Ðiều này rất đơn giản. Mới bắt đầu thì khoan khoái, chúng ta gọi nó là khoan khoái. Nói cách khác, cái khoan khoái đó chỉ là sự vọng tưởng, ảo tưởng của chúng ta. Hãy nhớ lại buổi sáng nay chúng ta đã nói về những điều vọng tưởng: chúng ta cho rằng cái đó là hạnh phúc, chúng ta cho nó một cái tên “hạnh phúc”, “khoan khoái”, nhưng nó sẽ dẫn đến khổ, đau. Ðây chỉ là một thí dụ cho chúng ta biết bất cứ cái gì mà chúng ta coi là dễ chịu, khoan khoái…, đều dẫn đến khổ đau.

Ðây là một thí dụ hay khác: bên Tây phương, khi người ta cưới nhau, người ta có ngày nghỉ, người ta đi hưởng tuần trăng mật; đó là phong tục của Tây phương. Ngày hôm trước làm đám cưới, ngày hôm sau dẫn nhau ra biển hưởng thú vui — rồi một tuần sau đổ vỡ, chia tay ! Chỉ mới một tuần sau đám cưới là chấm dứt. Có rất nhiều cặp vợ chồng như vậy. Qúy vị có biết điều đó không?

Thôi, tôi không đưa thí dụ nào ra nữa, có rất nhiều thí dụ rất hay ở đây, rất nhiều — kiểu hạnh phúc của Tây phương. Chúng ta đi ra biển, tôi chắc chắn rằng năm nay qúy vị đã ra biển. Chúng ta ở biển khoảng một giờ đồng hồ, chúng ta bị cháy nắng rồi chúng ta cảm thấy khó chịu. Trước khi ra biển chúng ta tưởng tượng ra biển sẽ vui lắm, nhưng kết qủa là thể xác chúng ta cảm thấy đau đớn, còn tinh thần cảm thấy chán. Ngay cả chính tôi cũng vậy. Trước khi qua Âu châu, tôi ở California, học trò của tôi dẫn tôi ra biển. Tới biển, tôi cởi mấy cái áo quần này ra, cả cái lưng của tôi bị cháy nắng. Chỗ này rát kinh khủng, tôi cảm thấy không thoải mái chút nào. Phải mất mấy ngày mặc áo rất đau.

Ðiều này xảy ra cho tất cả mọi người. Những gì chúng ta cho rằng nó sẽ mang lại hạnh phúc cho chúng ta, thực ra nó sẽ dẫn đến đau khổ. Chúng ta nói, “ Ðúng rồi, biển sẽ mang lại niềm khoan khoái,” nhưng thực tế nó rất đau. Một chút khoan khoái nhất thời để lại khổ đau lâu dài, bởi vì chúng ta tin rằng thú vui sẽ bền lâu, nhưng thực ra nó chỉ là những ý niệm mà chúng ta xây dựng lên. Chúng ta đã có những ý niệm sai lầm: chúng ta sẽ chịu đựng được khổ đau như chúng ta đang hưởng vui thú, chúng ta đang ôm giữ một tình trạng không có thật như là một tình trạng hiện hữu bền lâu. Chúng thì vô thường, hay thay đổi còn chúng ta thì ôm ấp chúng hoài hoài, đó là một ý niệm qúa sai lầm. Ðó là lý do tại sao chúng ta không thực, chúng ta hão huyền, chúng ta đặt để trên những kinh nghiệm của chúng ta bằng những lịch sử bong bóng vọng tưởng vĩ đại, hầu như chúng ta chưa bao giờ chạm được sự thật và thấy được sự vật như chúng thực sự là.

Ði tìm kiếm sự thật, tìm kiếm thực tại, có nghĩa là mỗi người chỉ nên theo dõi, quan sát kinh nghiệm sống của riêng người đó, quan điểm sống của riêng người đó. Như vậy là đủ rồi. Nếu chúng ta chấp vào những ý niệm cố hữu vững chắc của chúng ta về những kinh nghiệm khoái lạc hay đau khổ, là chúng thật sự hiện hữu, thì chúng ta chỉ kiếm tìm sự giải thoát như kiểu này: “ Tôi muốn được giải thoát, tôi muốn biết sự thật, tôi muốn biết thực tại. Có thể ông sư Tây tạng này sẽ chỉ cho tôi được sự thật.” Nhưng không có một phương pháp nào có thể chỉ cho chúng ta tìm được sự thật. Sự thật đang ở trong anh, sự thật luôn luôn ở nơi mỗi người chúng ta.

Ðó là lý do tại sao Phật giáo rất đơn giản, qúa sức đơn giản. Tìm kiếm sự thật không có nghĩa là chúng ta phải chú ý đến Phật. Chúng ta không chú ý đến sự thật ở đây hay ở đây (Lama chỉ vào những tấm tranh đạo của Tây tạng treo trên tường). Chúng ta không bao giờ nên tin rằng sự thật ở những bức tranh đó hay sự thật là Ðức Phật. Quan điểm của Phật giáo cho rằng nếu chúng ta đi tìm sự thật ở bên ngoài, nếu chúng ta tin rằng sự tuyệt đối chỉ ở một chỗ nào ngoài kia, thì đó chỉ là hão huyền, vô vọng, thì sẽ không có một con đường nào có thể giúp chúng ta giải quyết được những vấn đề, những rắc rối của chúng ta. Không có một con đường nào ngoài kia cả.

Sự tuyệt đối, sự thật chỉ có ở trong chúng ta, đang ở với chúng ta. Nó đã ở với chúng ta từ ngày chúng ta sinh ra, từ khi chúng ta hiện diện. Không có gì ngăn cách giữa chúng ta, giữa sự thật về chúng ta và sự thật tuyệt đối. Sự hợp nhất căn bản này đã thực sự hiện hữu; nó chỉ cần chúng ta nhận ra nó.

Ðó là lý do tại sao con người nên sớm nhận ra được những khoái lạc trần gian và tất cả những đối tượng chỉ là những vọng tưởng và huyễn ảo. Nó là như thế, không có cách nào hơn, đó là sự thật. Ðó là sự thật. Chúng ta phải nhận ra được điều này. Từ đó chúng ta sẽ trở nên uyển chuyển hơn, rộng mở hơn, chúng ta sẽ tiếp xúc được với sự thật và cùng mở rộng ra với sự thật thay vì chỉ bám víu vào những huyễn hoặc u mê.

Tại vì chúng ta bám víu vào khoái lạc và đau khổ, nên chúng ta mới có vấn đề, chúng ta mới có những kiểu lệ thuộc: “Gia đình tôi đặc biệt; con cái tôi đặc biệt; vợ tôi đặc biệt; chồng tôi đặc biệt; còn tất cả thế giới chẳng có gì hay cả.” Cái này là quan trọng “gia đình tôi, bạn bè tôi, quê hương tôi” còn những cái khác thì không quan trọng. Chúng ta đã có một ý niệm nhị nguyên, chia rẽ: bám víu mạnh vào một bên và khước từ mạnh cho bên kia. Khen bên này, chê bên kia.

Như vậy, làm thế nào để trở nên lành mạnh? Làm thế nào để con người có một tinh thần lành mạnh? Một bên thì bám víu đeo đuổi , một bên thì bỏ bê chán ghét, chẳng bên nào lành mạnh cả. Do đó, con người không thể vui được, không thể có hạnh phúc được. Chúng ta chỉ hão huyền, u mê. Chúng ta hoặch định đời sống cái này nên nắm giữ, cái này nên từ bỏ, cái kia nên để lưng chừng không giữ không bỏ. Rồi chúng ta bắt đầu cố gắng tổ chức sự vật theo chiều hướng đó, nhưng tình trạng chỉ trở nên hỗn độn hơn, lung tung hơn.

Chúng ta cần phải hiểu cái gì mới thực sự là hạnh phúc và cái gì thực sự là không hạnh phúc; ý nghĩa thật sự của hạnh phúc là gì, ý nghĩa thật sự của không có hạnh phúc là gì. Chúng ta cần phải thấu hiểu vấn đề này để có những hành động thích hợp hơn. Chúng ta hãy mở rộng tâm hồn, hãy mở rộng trái tim để tiếp xúc với sự thật. Khi tâm hoàn toàn u mê, mù quáng, bám viú thì tâm không thể mở rộng ra được. Không thể được. Mặc dầu có tụng niệm hết kinh này đến kinh khác cũng chẳng thay đổi được gì. Nghe hết bài giảng này đến bài giảng khác cũng chẳng giúp được gì.

Chúng ta cần phải thiền định. Thiền không phải là chuyện tầm phào, giỡn chơi cho vui. Ðó là một công việc rất quan trọng, rất cần thiết. Thiền là hòa nhập trong thực tại, trong sự thật, thiền là buông xả những ràng buộc, những ý niệm đã chồng chất. Thiền là buông bỏ những quan điểm u mê, cuồng tín, thiền là chấm dứt những sự hiểu biết nông cạn, bề ngoài. Qúy vị có hiểu không?

Ðây là một thí dụ: Bên Phương Tây, người ta cho rằng tôn giáo, Phật giáo hay bất kỳ thứ đạo nào cũng đều là dị đoan, mê tín, nhảm nhí. Ðây là một quan niệm rất thường thấy ở Tây phương. Như lịch sử của Hy lạp, có rất nhiều điều tin nhảm vào thần thánh. Tôn giáo của Hy lạp có rất nhiều thần, đó cũng là lịch sử của Tây phương. Qúy vị ở đây có học về lịch sử này không? Họ nói rằng đó là mê tín dị đoan, phải không? Tôi không phê phán văn hóa của qúy vị hay những gì qúy vị tuyên bố, nhưng đồng thời qúy vị cũng đeo đuổi, bám víu vào những sự hiện diện của khoái lạc và khổ đau. Theo Phật giáo, cái kiểu suy nghĩ này, cái tâm này mới chính là mê tín dị đoan, đó mới là mù quáng, nhảm nhí thứ thật.

Như Lạt ma Je Tsong Khapa đã nói: ngay lúc bắt đầu ăn, chúng ta cảm thấy khoan khoái — “Ô, đã quá. Ô, sướng quá.” Lạt ma Je Tsong Khapa nghĩ đây mới chính là điều nhảm nhí. Chỉ ngăn được cơn đói thì đó không phải là khoan khoái, sung sướng. Chúng ta thường gọi đó là khoái cảm nhưng thực ra nó không phải là khoái cảm thật. Hầu như tất cả chúng ta đã có những kinh nghiệm khoái lạc, vui sướng, đớn đau, đau khổ, buồn khổ. Chúng ta đã đặt tên cho chúng là hạnh phúc hay không hạnh phúc, nhưng hạnh phúc và không hạnh phúc chỉ là những điều huyễn ảo; đó chỉ là những gì mà cái tâm u mê của chúng ta bày đặt ra rồi gắn nhãn hiệu cho chúng, đặt tên cho chúng. Tất cả đều là như vậy. Chẳng có gì là chân hạnh phúc, chẳng có gì là thật sự vui sướng cả.Tất cả đều là vọng tưởng.

Tôi đang nói về chúng một cách thông minh, nhưng trong thiền định chúng ta thực sự kinh nghiệm được những điều này. Khi chúng ta thiền, chúng ta có thể nhìn rõ được tất cả những hành động của chúng ta trong ngày, nhìn rõ được từng sự kiện và chúng ta sẽ biết được rằng có một cái gì đó không đúng; chúng ta biết được một cách rất tự nhiên. Ðó là lý do tại sao thiền giúp chúng ta nhìn ra được những điều mê tín, dị đoan, nhận ra được những lối sống mù quáng không có một chút giá trị nào. Chúng ta sẽ biết được chúng hoàn toàn là huyễn ảo. Thiền giúp chúng ta đi sâu hơn vào tính bản nhiên của chúng ta và đánh thức được trí tuệ sâu thẳm nhất của chúng ta.

Bây giờ chúng ta có thể hiểu được tại sao Atisha đã nói như vậy. Thông thường chúng ta có những sinh hoạt tôn giáo, có những buổi thiền định hoặc có một vài hoạt động khác; nhưng trong tất cả những buổi sinh hoạt này chúng ta đã không thực sự thấy được những điều nhảm nhí đang nhảy múa. Chúng ta đã không bắt được chúng. Chúng ta đã không đụng chạm được chúng.

Những điều nhảm nhí đang nhảy múa, như những vũ điệu trên sàn nhảy, nhưng chúng ta đã không thấy chúng. Chúng ta chỉ thiền, thiền, thiền: “Ô, đẹp quá! Tôi thấy nhiều cái kỳ diệu qúa, nhiều mầu đẹp quá!” (Lama diễn tả sự khoan khoái) Nhưng đó chỉ là những trò huyễn ảo và những rác rưởi của “cái tôi” đang nhảy múa. Chúng đang hoàn toàn tràn ngập con người chúng ta. Chúng chạy, chúng nhảy múa lung tung không ngừng, chúng ta đã không bắt được chúng. Nhưng trong thiền định, chúng ta nên bắt được chúng!

Rồi khi chúng ta nhận thức được điều này, chúng ta lại làm giảm đi sự tự nhiên. Cho đến khi chúng ta hiểu được chúng, cho đến khi chúng ta biết được chúng, chúng vẫn tiếp tục nhảy múa. Ðó là lý do tại sao nếu chúng ta thực sự muốn giải quyết vấn đề của chúng ta, thì những hoạt động tôn giáo không đủ. Chúng ta phải tự đặt câu hỏi cho chính chúng ta, rồi khi sự việc xẩy ra, hãy ngồi xuống, thay vì cuống cuồng chạy lung tung, hãy ngồi xuống, bình tĩnh, từ từ phân tích xem cái gì đang diễn tiến, đang xuất hiện ở trong tâm chúng ta.

Với phương pháp này, chúng ta có thể tóm bắt được con gà lăng xăng của thái độ chúng ta. Con gà vừa chạy vừa kêu ka ka ka ka. Chúng ta sẽ bắt được con gà tinh thần của chúng ta, “ Ô, con gà đây rồi”. Rồi con rắn chạy ra, chúng ta cũng bắt được nó. Rồi con heo chạy ra, chúng ta cũng bắt được nó. Rồi sự chuyển hóa từ từ đến, sự chuyển hoá thực sự đến. Nếu không như vậy, chúng ta chỉ giỡn chơi thôi, chỉ thử cho vui, chỉ bắt chước lấy lệ. Chúng ta đã không thực sự thành thật với thiền định, chúng ta đã không quyết tâm, đã không tha thiết với thiền định.

Ví dụ, một người bạn thân của qúy vị đến Thụy điển thăm bạn vào mùa đông, họ nói: “ Chào bạn, mùa nghỉ này chúng ta qua Hy Lạp chơi đi, ở đây buồn và lạnh qúa. Hy Lạp là nơi lý tưởng cho những ngày lễ, ở đó lại có biển nữa.” Nếu qúy vị là người hiểu biết, qúy vị sẽ có những câu hỏi thực tế, qúy vị sẽ hỏi ngược lại họ thay vì trả lời “ Ừ, đúng, đúng.” Hãy lắng nghe tất cả những câu nói của bạn bạn và hãy hỏi lại họ. Qúy vị hãy hỏi, đừng nhảy ngay vào vấn đề, cũng đừng chấp nhận trọn vẹn mọi vấn đề mà bạn của bạn đề nghị. Ðiều này thực sự quan trọng. Một người chân thành tìm kiếm, một người quyết tâm tìm kiếm sẽ đặt câu hỏi, sẽ thắc mắc trên tất cả mọi vấn đề mà họ nhận được, dù ý kiến đó từ người bạn thân nhất của họ.

Qúy vị nghĩ tôi là một người khó tính? Phải, tôi khó tính, nhưng tôi không bận tâm về điều đó. Dù sao đi nữa, tôi không khó tính đâu, thực ra tôi đã muốn là một người khó tính. Tôi nhớ Lạt ma Je Tsong Khapa đã cho một thí dụ: Khi Phật Thích Ca ngồi thiền định 6 năm ở Bodhgaya, đã có những thiếu nữ đến sức dầu thơm trên thân thể Ngài, cũng có những người đến cắt da thịt Ngài khi Ngài đang thiền. Nhưng đối với Ngài, Ngài hoàn toàn đối xử với họ như nhau, người tốt với Ngài cũng như người đối xử xấu với Ngài. Qúy vị có hiểu thí dụ này không? Ðây là một thí dụ rất qúi gía nhưng có lẽ qúa khó hiểu cho chúng ta, nhưng nó được kể ra bởi một vị Ðại Lạt ma như Je Tsong Khapa thì đây là một ơn phước lớn cho chúng ta.

Tôi nghĩ rằng đây là một ví dụ rất tốt về những gì chúng ta đang nói ở đây. Từ khi tiếp xúc với người Tây phương, một điều khó khăn là không làm cách nào để họ hiểu được rằng chúng ta không nên hài lòng thích thú khi gặp những điều vui, có phải vậy không qúy vị? Nói một cách khác, khi chúng ta gặp những điều may mắn, những công việc hài lòng, chúng ta không nên vồn vã ưa thích nó, không nên hớn hở ôm chặt lấy nó. Do đó, khi người nào đem lại cho chúng ta sự vui tươi, chúng ta không nên hấp tấp đón nhận nó, cũng vậy, khi người nào đem lại nỗi buồn cho chúng ta, chúng ta cũng không nên tỏ vẻ tức bực, chống đối mặc dù chúng ta cảm thấy như vậy.

Ðiều này rất đúng, khi một người nào đó đến nói với tôi: “ Oâi, tội nghiệp ông sư, ông không có điều gì vui sướng. Oâng chẳng bao giờ có được sự hài lòng,” rồi họ rắc lên tôi những mùi hôi thối; hay một vài người khác nói, “ Ô, ông là một nhà sư quái gở, ích kỷ. Oâng giống như là một con khỉ, một con cọp, một con heo, một con gà.” Khi người ta đến sỉ vả chúng ta như vậy, dĩ nhiên những sự kiện đó thấm nhập vào chúng ta, chúng ta nên cẩn thận kiểm soát chúng.

Chúng ta kiểm soát tâm của chúng ta rất khó phải không qúy vị? Nó rất khó thành ra chúng ta cứ bị lừa hoài. Khi người ta đến khen chúng ta, sức nước hoa lên người chúng ta, chúng ta nói, “ Ồ, tốt qúa, tốt qúa, cám ơn nhiều lắm.” Nhưng chúng ta biết đó, đây là những lời khen không có giá trị, nó sẽ đem lại sự đau khổ. Khi một người nào đó nói thành thật, “ Anh trông giống như một con gà,” thì có thể đúng. Trong một khía cạnh nào đó, trong một phần nào đó của tâm tôi, tôi giống như một con gà, nên lời phê bình đó có thể hữu ích cho tôi.

Thí dụ này có ích lợi cho chúng ta. Nó cho chúng ta biết khi một người nào đó đem đến cho chúng ta những trở ngại, những giây phút bực bội, thì chưa chắc đã thực là xấu, chưa chắc đã thực sự gây bực tức cho chúng ta mà đó chính là sự tự thể hiện của tâm chúng ta. Cũng vậy, khi một người đem đến cho chúng ta sự hoan lạc, tình yêu, tiền bạc thì chưa chắc đã tốt, nó có thể đem lại sự tồi bại, nó có thể hủy diệt tất cả những gía trị của chúng ta, làm tinh thần chúng ta xuống dốc, mệt mỏi.

Tôi nghĩ rằng thí dụ này đã qúa rõ ràng. Một điều vô cùng quan trọng mà tôi muốn trình bày là khi ai đem lại cho chúng ta sự hài lòng hay chúng ta nhận được sự hài lòng, đừng vồ chụp, đừng ôm ấp, đừng vồn vã, đừng tham lam! Ðừng nghĩ rằng “ Ồ, thực là đặc biệt! Thực là tốt! ” Hãy để nó ra đi. Và khi sự buồn bực xẩy ra, cũng đừng vội vàng xua đuổi chúng. Hãy nhận định rằng tất cả những chuyện buồn đau, tất cả những niềm vui trong cõi đời này đều như những phóng tưởng, như những nhãn hiệu, như những chuyện u mê, lầm lẫn của tâm chúng ta mà ra. Chúng ta nên nhận định chúng như trò huyễn ảo, hão huyền thì chúng ta không còn buồn khổ nữa. Ðiều này giúp chúng ta kiểm soát được những cảm xúc để cân bằng chúng.

Ðây là vấn đề vô cùng quan trọng cho tất cả chúng ta, vô cùng quan trọng. Chúng ta luôn luôn thay đổi, khi thì lên khi thì xuống, khi thì vui khi thì buồn trên tất cả mọi sự việc — đặc biệt đối với những nguời thân cận, gần gũi chúng ta hàng ngày. Hãy lấy một thí dụ: gỉa thử vợ anh cho anh ăn chocolate mỗi ngày. Thế rồi một ngày bà ta quên không mua, anh liền bực tức, ”Ồ, chúng ta đã cưới nhau 5 năm rồi, bà mua chocolate cho tôi mỗi ngày, hôm nay bà không mua nữa, chắc chắn có chuyện gì đây !” Chúng ta đã diễn dịch sự kiện theo một chiều hướng chẳng có ý nghĩa gì cả, nó hoàn toàn chẳng có gì quan trọng, không có một chút xíu quan trọng nào cả. Ðây là tất cả những gì mà con người tạo ra cho nhau, quý vị có thể tưởng tượng ra không? Ðây chỉ là một thí dụ nhỏ. Bà ta cho anh cả tinh thần lẫn vật chất trong 5 năm nhưng chỉ một ngày quên không mua bánh cho anh mà anh đã phá hủy tất cả mọi sự việc. Chúng ta nghĩ nó có hợp lý hay không?

Ích kỷ, thực sự là ích kỷ, toàn là chuyện bịa đặt, phải không? Chúng ta đã thành lập ra những sự liên hệ giữa con người với nhau, chúng hoàn toàn chỉ là sự liên hệ. Nhưng chúng ta đã không nhận thức được rằng đây chỉ là sự liên hệ, công ước, giao ước với nhau, có thể một ngày nào đó chúng ta sẽ cùng công nhận với nhau nên chấm dứt việc sản xuất sô cô la. Tôi nghĩ như vậy.

Ðây là điều mà tôi muốn nói: sáng nay tôi đã trình bày khi mà chúng ta có một chút thích thú, một cảm giác vui thú, chúng ta liền mất sự kiểm soát, đó là một sự sai lầm. Rồi khi chúng ta có một chút bực bội, chúng ta liền từ chối, không chấp nhận. Ðây cũng là điều không tốt sao? Phải, nó không tốt, đây là một ý tưởng rất mới đối với qúy vị và đó là lý do tại sao tôi lại phải giải thích thêm một chút nữa.

Tôi nghĩ rằng đây là một vấn đề vô cùng quan trọng mà chúng ta cần phải hiểu. Chúng ta luôn luôn vô lý. Chúng ta cố gắng để có lý nhưng thực ra chúng ta luôn luôn vô lý, vì thế chúng ta luôn gặp phải hết vấn đề này đến vấn đề khác, hết khó khăn này đến khó khăn khác, chúng trở đi trở lại hầu như không bao giờ hết. Ðó là lý do tại sao chúng ta phải chọn con đường ở giữa (trung đạo).

Chúng ta thường nghe nói về Trung Ðạo trong Phật giáo. Trung đạo có nghĩa là chúng ta nên điều chỉnh, thay vì qúa nghiêng về bên này hay qúa nghiêng về bên kia; ham cái này và ghét bỏ cái kia. Ðiều này không tốt. Cả hai thái độ đều sai lầm, đều là u mê, chúng ta phải nhận định ra vấn đề này. Tốt hơn chúng ta nên chọn con đường ở giữa. Khi có người nào dành cho chúng ta qúa nhiều thiện cảm, qúa nhiều tình yêu, chúng ta hãy nói với họ “ Làm ơn đừng cho tôi qúa nhiều thiện cảm như vậy,” rồi khi người nào gây cho chúng ta qúa nhiều phiền phức hoặc tức giận chúng ta, hãy nghĩ rằng họ có thể là một ông thầy tốt, họ đang cho chúng ta một bài học. Họ có thể là sự thị hiện của Ðại sư phụ Thích Ca Mâu Ni. Ðó là một sự thật, chúng ta không nên chán ghét họ.

Thưa qúy vị, tôi thực sự là đáng trách, đáng lẽ tôi phải trình bày về sự buông xả, về tam bảo hay những đề tài giống như vậy, phải vậy không? Ðó là công việc của tôi, tôi đã không làm tròn bổn phận.

Vậy, chúng ta hãy quay trở về với sự buông xả, sự từ bỏ. Thực ra tất cả những gì mà tôi đã trình bày với qúy vị từ sáng đến bây giờ đều là buông xả. Như tôi đã nói trước đây, buông xả không có nghĩa là chúng ta hãy vất cái mũi của chúng ta đi, qúy vị còn nhớ không? hay chúng ta hãy vất cái cái tai hoặc đôi tay của chúng ta đi. Buông xả là chúng ta hãy giảm bớt sự bám víu, sự tham lam của chúng ta lại. Khi đó, sự buông xả thật sẽ xẩy ra, sự buông xả thật sẽ đến.

Tôi đã không đề cập đến sự buông xả, sự từ bỏ ngay từ đầu vì e rằng qúy vị sẽ sợ. Nếu qúy vị muốn tôi phải nói ra một điều gì đó thì ý kiến của tôi là chúng ta nên từ bỏ cái sự liên hệ, cái công ước phức tạp của chúng ta đi. Trong thế kỷ 20, chúng ta đã tạo ra một sự liên hệ qúa phức tạp giữa con người với nhau, một mối tương quan qúa rắc rối! Chúng ta đang nói chuyện với nhau phải không? Nói một cách khác, chúng ta đã không có một sự liên hệ tự nhiên giữa phái nữ và nam, giữa thầy và trò, giữa người và người. Nó không được tự nhiên.

Qúy vị nghĩ thế nào về vấn đề tôi đang trình bày? Tôi nghĩ rằng nó qúa xa lạ với qúy vị, phải không? Theo tôi, cho đến ngày hôm nay, sự tương quan giữa đàn ông và đàn bà vẫn còn qúa phức tạp, nó không được tự nhiên. Có thể tôi qúa bi quan chăng? Tương quan giữa thầy và trò qúa phức tạp và rắc rối; hầu như trong tất cả mọi lãnh vực, sự tương quan, sự liên đới đã không còn tự nhiên, chúng ta đã tạo ra quá nhiều rắc rối cho đời sống xã hội. Qúy vị có nhận thấy sự liên hệ giữa người Thụy Ðiển và xã hội Thụy Ðiển qúa phức tạp không? Những sự phức tạp này làm cho chúng ta dễ nổi giận, dễ mù quáng, kết qủa là chúng ta đã tăng thêm sự thù hận rồi chúng ta trở nên bám víu hơn nữa. Ðó, tất cả chỉ là như vậy. Có lẽ tôi điên chăng? hay tôi không biết? Vậy làm gì bây giờ?

Tôi nghĩ nếu tôi phải giải thích sự tương quan phức tạp này có lẽ phải mất cả tháng trời, nên tôi xin ngừng ở đây, nhưng qúy vị nên tự tìm hiểu xem sao. Theo truyền thống của Tây Tạng thì chúng tôi thường cho học trò những công việc phải làm, phải tự giải quyết cũng như phải tự kiểm soát lấy. Ðôi khi là một đề tài lớn cần cả một đời mới thấu suốt được. Vậy, đây là đề tài mà qúy vị phải tự tìm hiểu lấy, tự giải quyết lấy.

Ðể thêm vào, tôi có thể nói rằng nếu không còn có cách nào tạo được sự liên hệ lành mạnh, sự tương quan hạnh phúc thì chúng ta nên cắt bỏ, nên dứt khoát. Qúy vị có nghe tôi nói không? nếu vấn đề qúa phức tạp, không còn có thể tạo được bầu không khí hạnh phúc, không còn lối thoát thì tốt hơn, theo tôi nghĩ, chúng ta nên chấm dứt. Qúy vị vẫn tiếp tục nghe tôi đấy chứ?

Dĩ nhiên sự buông xả có thể giải thích bằng rất nhiều cách khác nhau. Thí dụ, nhìn từ quan điểm thực hành, tôi chắc rằng qúy vị đã từng nghe trong Phật giáo có rất nhiều lời dạy bảo cho hàng tăng sĩ và cư sĩ. Ðó là một trong muôn vàn cách từ bỏ. Có năm lời dạy bảo như không được sát sanh, không được trộm cắp, không được nói dối, không được gian dâm và không được say sưa.

Một cách khác để từ bỏ những tình trạng phức tạp là hãy biết rằng, hãy hiểu sâu xa rằng tâm của chúng ta có liên hệ với tham, sân và si. Chúng ta biết rằng tâm của chúng ta có một mối liên hệ chặt chẽ với những thứ trên, đây là nguyên nhân của tất cả mọi vấn đề, mọi khó khăn trong cuộc sống. Những trở ngại, những vấn đề trong cuộc sống không đơn giản chỉ là vật chất mà chính là tinh thần. Chúng ta nên biết rằng lòng ham muốn và bám víu vào những thói quen thường dẫn đến khổ đau. Nhận thức được, hiểu thấu suốt được vấn đề này là một phương pháp vô cùng hữu hiệu trong sự buông xả và từ bỏ.

Con đường chân thật, sự từ bỏ chân chính chỉ đến khi chúng ta nhìn ra được tất cả những sự hấp dẫn trần gian đều đáng nôn mửa. Một khi chúng ta nhìn ra được tất cả mọi tình trạng vui thú trần gian đều đáng nôn mửa thì sự buông bỏ thật sự mới đến.

Tôi muốn qúy vị hiểu thêm một vấn đề khác nữa: chúng ta đã nói về những trở ngại và những tham muốn, chúng ta đã biết tất cả những thứ này đều là những quan niệm sai lầm về một cái tôi hiện hữu (bản ngã thường hằng). Chúng không phải là những đức tính tuyệt đối của con người. Chúng chỉ như là những làn sóng trong đại dương hay trong ao hồ khi mà một làn gío thổi qua. Tất cả những phiền phức sẽ xẩy ra ngay sau khi chúng ta bắt đầu có lòng tham muốn (tôi muốn). Tất cả những lần chúng ta hô lên “ Ồ..” rồi lắc đầu “Không…” rồi bằng lòng “Có…” đều như những làn sóng nhấp nhô trên mặt nước; chúng không phải là những đặc tính của tâm thức chúng ta.

Ðó là lý do tại sao Phật giáo nói rằng bản tính tự nhiên của con người thì trong sáng, thanh tịnh. Nếu chúng ta để tâm của chúng ta hoàn toàn tự nhiên thì nó rất trong sạch. Nếu chúng ta để nó làm việc một cách tự nhiên thì chúng ta hoàn toàn ở trong tình trạng tỉnh thức. Nhưng nếu trong một lúc nào đó, chúng ta quay cuồng, qúa động thì sự việc xẩy ra cũng lên xuống như làn sóng trên mặt nước. Khi sự nuối tiếc mãnh liệt đến, khi sự bám víu mãnh liệt đến, chúng ta sẽ nhào lộn như con diều trong gío lốc, rồi sự ganh ghét, oán hờn xẩy ra; khi sự vồ chụp, chiếm hữu, níu kéo, chấp xẩy ra là cơn nóng giận bừng bừng kéo đến. Tất cả đều như làn sóng nhấp nhô trên biển cả. Khi làn sóng tràn ngập qua, chúng ta không còn tỉnh thức, chúng ta không còn tự chủ. Qúy vị có hiểu không? Qúa đơn giản phải không?

Sáng nay chúng ta đã thiền định với âm OM khoảng 2, 3 phút. Từ chủng tử OM những tia sáng năng lượng trắng tỏa ra. Qúy vị có nghĩ rằng những tia sáng trắng này phát ra một cách rất khoa học và có cả trong thân xác của chúng ta không? Không? Tôi hỏi qúy vị. – Không?
( “Không” ) Thật không? Không có những năng lượng ánh sáng trong cơ thể và trong óc của chúng ta sao? Tôi thật ngạc nhiên về điều này !

Hầu như tất cả mọi người Tây phương đều đã học, đã biết rằng trong cơ thể của chúng ta có ánh sáng. Với những dụng cụ khoa học, chúng ta có thể đo được dòng ánh sáng trong cơ thể của chúng ta. Hãy hỏi thầy giáo trong trường học của qúy vị.

Qúy vị thấy đó, đây là một vấn đề. Chúng ta có ánh sáng, mà chúng ta vẫn nói rằng chúng ta không có. Nói theo khoa học, chúng ta đã bị nó tràn ngập rồi. Mặc dầu vậy, chúng ta chỉ tin khi nào chúng ta nhìn thấy, phải không? Nhưng nếu chúng ta thiền định thì ngay cả việc nếu chúng ta không cảm thấy chúng ta có những tư tưởng tiêu cực hay tích cực, hay chúng ta cũng chẳng thấy chúng ta có vấn đề gì thì sự thiền định vẫn có ảnh hưởng đến chúng ta. Chúng ta không cần phải tin, hãy cứ thực hành rồi sẽ có chuyện xẩy ra, sự chuyển hóa sẽ đến. Tâm của chúng ta sẽ nhẹ nhàng hơn, sẽ thoải mái hơn, rồi sẽ an lạc hơn.

Rồi ngưng âm OM và hãy là bất cứ cái gì đang hiện diện trong tâm thức của chúng ta. Hãy là bất cứ cái gì đang hiện diện mà đừng để cho trí thông minh của chúng ta quấy rầy chúng ta. Hãy cứ lên đường.

Trong buổi thiền định chiều nay, chúng ta sẽ làm y như vậy với ánh sáng màu đỏ AH toả ra ở đây ( cổ hoïng, nơi luân xa 5, – Dg ). Trong lúc bình thường ngôn ngữ, lời nói của chúng ta không được kiểm soát. Sự không được kiểm soát này đến từ tâm. Tâm làm cho mọi sự việc trở nên rắc rối, vì thế chúng ta nên kiểm soát nó. Hãy quán tưởng những tia sáng màu đỏ và âm thanh AH đang lan tỏa khắp thân thể của chúng ta, như vậy tất cả những nguồn năng lượng không thanh tịnh sẽ được thanh tẩy, sẽ được xóa bỏ đi. Sự chuyển hóa sẽ xẩy ra. Sau một vài phút hãy ngưng tụng AH. Ngay sau khi chúng ta ngừng, đừng để cho trí thông minh của chúng ta quấy rầy chúng ta mà hãy để bất cứ gì xẩy đến được hiện diện một cách tự nhiên, hãy tỉnh thức. Hãy theo dõi, chỉ vậy thôi.

Hãy ở trong trạng thái này của tâm, đừng phản ứng gì cả. Ngay cả việc chúng ta cảm thấy có những ý tưởng tiêu cực (negative) đang tràn ngập, rất tốt nếu cứ để y như vậy, đừng phản ứng gì cả. Ngay cả những ý tưởng tiêu cực cũng đều trong sáng, như một phần của đại dương, một phần của năng lượng trong sạch. Trong truyền thống Tây tạng chúng tôi gọi nó là sal.zhing rig.pa. Sal có nghĩa là ‘trong sáng,’ zhing có nghĩa là ‘và,’ còn rig.pa có nghĩa là ‘đang nhìn’. Như vậy, ý tưởng tự nhiên, tâm thức tự nhiên và bản tính tự nhiên của tâm thì trong sạch và đang nhìn; ngay cả việc chúng ta đang nhìn thấy một cảnh huyễn ảo, chúng ta cũng vẫn đang nhìn cái gì, phải vậy không? Như vậy bản tính tự nhiên của nó ‘trong suốt’

Càng trong sạch, càng thanh tịnh càng tốt, không phải là một cái tâm ngủ gục hay lười biếng, cũng không phải là cái tâm thông minh hay mê loạn. Hãy để như vậy. Ngay cả việc chúng ta không cảm thấy gì, đó là điều rất tốt, không có gì còn hơn là tràn đầy những ý nghĩ rác rưởi. Hãy để y như vậy. Nếu chúng ta là không-gì-cả, không thấy, không màu, không nghĩ, chỉ tỉnh thức, chỉ theo dõi, chỉ nhìn thì hãy ở trong tình trạng không-là-gì đó. Hãy tỉnh thức. Thực là tốt.

Mỗi khi chúng ta an trú trong tâm bản nhiên, mỗi khi chúng ta ở trong trạng thái không-là-gì, thì ngay lập tức không còn những ý niệm gỉa tạo, sai lầm nữa, như vậy chúng ta sẽ chứng nghiệm được sự rỗng không. Thay vì sợ hãi và nghĩ “ tôi đã chứng nghiệm được tính không, tôi sắp sửa rời xa thực tại vì tôi đã cảm nghiệm được tính không,” thì hãy chỉ cảm nhận kinh nghiệm này. Thông thường chúng ta muốn chạy xa thực tại bởi vì chúng ta qúa bận bịu với những tham vọng trần gian. Nhưng bây giờ, nhờ an trú trong tâm bản nhiên, tất cả những ý niệm lộn xộn này sẽ từ từ giảm đi và biến mất trong giây phút. Nếu chúng ta cảm thấy chúng ta cũng biến mất, hãy biến đi. Ðừng sợ hãi điều đó; hãy hăng hái chấp nhận. “ Tôi đang tiếp xúc với sự thật.” Qúy vị có hiểu không? Tan biến trong sự thật thì tốt hơn là chứng nghiệm sự thật rồi cứ bám víu ôm giữ nó. Qúy vị vẫn nghe tôi đấy chứ? Qúy vị có hiểu tôi muốn nói gì không?

Bình thường chúng ta cứ muốn có nhiều thứ, cứ muốn chiếm hữu thật nhiều rồi nghĩ, “ Ồ, tôi có nhiều qúa, bây giờ tôi có tất cả mọi thứ.” Chúng ta nghĩ như vậy để tự hài lòng, để tự thỏa mãn; chúng ta cho rằng đây là sự thật. Lần này, bây giờ, chúng ta cảm nhận một sự thật hoàn toàn ngược lại –rỗng không, VÔ ! — Cái thân xác đầy rác rưởi này tan rã và ngay cả cái tôi, cái bản ngã cũng tan vỡ, biến mất. Như vậy là chúng ta càng hòa nhập trong sự thật, càng đi sâu vào sự tỉnh thức. Hãy hoà nhập càng lâu càng tốt. Ðừng thắc mắc, đừng thông minh hoá cũng đừng đắn đo gì cả, hãy cảm nghiệm, hãy hòa tan trong sự tỉnh thức này. Ðó là tất cả những gì tôi muốn nói. Chỉ có vậy thôi. Rồi chúng ta sẽ có sự thỏa mãn tự nội tâm của chúng ta, rồi chúng ta sẽ biết thế nào là sự an lành ở nội tâm, đại viên mãn, đại hoàn mãn. Sự viên mãn này là kết qủa thực thụ của sự từ bỏ, buông xả. Trái ngược của buông xả là bận rộn ở bên ngoài, luôn luôn kiếm tìm, luôn luôn chạy tới chạy lui để tìm xem có cái gì để chiếm đoạt, để sở hữu hay không.

Lần này chúng ta chẳng còn dồn hết tâm trí vào những sự kiện ở bên ngoài. Chúng ta không còn mơ tưởng đến những đối tượng ở bên ngoài. Chúng ta sẽ tỉnh thức trong tất cả mọi tình trạng của tâm chúng ta. Thực ra đây là một phương pháp thiền trực tiếp nhất để cắt đứt tất cả những mầm mống, những nguyên nhân của tất cả những rắc rối, những phiền nhiễu, những vấn đề của con người. Ðó là tất cả những gì tôi cảm thấy. Ðó là tất cả những gì mà lần này chúng ta thực hành.

Xin cám ơn và kính chào qúy vị.

This entry was posted in Phật Giáo. Bookmark the permalink.