24. 15). Bốn loại thứ sáu: là định đạt được nhờ tinh cần nhiều, nhờ nhứt tâm, tinh tiến hay trạch pháp nhiều.
25. 16) Ðịnh năm loại: theo năm thiền khi phân nhị thiền làm hai, là thiền không tầm có tứ, và không tầm không tứ (gọi là nhị thiền và tam thiền ở hệ thống năm thiền).
26. (v) Cái gì làm ô nhiễm Ðịnh? (vi) Cái gì làm nó thanh tịnh? Vibhanga nói là cấu uế là trạng thái dự phần vào thối giảm, thanh tịnh là trạng thái dự phần vào thắng giải (visesa). Thối giảm là “Khi một người đắc sơ thiền, mà có thể tưởng là tác ý câu hữu với dục, tuệ vị ấy dự phần vào thối giảm”. Và trạng thái dự phần vào thẳng giải là “Khi vị ấy có thể tác lý và tưởng không câu hữu với tầm”.
27. (vii) Làm thế nào tu tập Ðịnh?
A. Tóm tắt:
Phương pháp tu tập loại định liên hệ tám thánh đạo (xuất thế) bao gồm trong phương pháp tu tập tuệ (Ch. XXII), vì trong khi tu tuệ, định cũng được phát triển. Bởi thế ở đây ta không bàn đến sự tu tập định xuất thế.
28. Nhưng định thế gian phải được tu tập bởi một người đã đứng vững trên đất giới có giới hoàn toàn thanh tịnh như đã mô tả. Vị ấy phải đoạn trừ mười chướng ngại, gần gũi thiện tri thức, người cho một đề tài thiền quán, phải nắm lấy một trong bốn mươi đề tài, cái nào thích hợp với cả tính hành giả. Sau đó phải tránh ngôi chùa không thuận lợi, đến sống tại một thuận lợi cho sự tập định. Rồi phải trừ khử các chướng ngại phụ thuộc và không bỏ qua bất cứ một chỉ dẫn nào.
B. Khai triển chi tiết:
29. Mười chướng ngại. Ðó là: trú xứ, gia đình, lợi dưỡng, đồ chúng, việc xây cất, du lịch, quyến thuộc, ưu não, sách vỡ, thần thông.
30. 1) Trú xứ: Có thể là một phòng nhỏ trong nhà, một cái chòi, một tu viện. Ðây không phải là một chướng ngại cho tất cả mọi người. Nó chỉ là một chướng ngại cho người bận tâm việc xây cất đang tiến hành ở đấy, hoặc có nhiều đồ đạc ở đấy, hoặc bận rộn vì một công việc liên hệ đến chỗ ấy.
31. Có câu chuyện như sau. Hai thiện nam tử rời khỏi Anuradhapura để xuất gia tại tu viện Thùpàtàma. Một người học hai tạng Pháp và Luật, sau khi mãn năm tuổi hạn, dự lễ tự tứ rồi đến một nơi tên nơi Pàcìnakhandaràjà. Vị kia ở nguyên tại chỗ. Khi người ra đi đến Pacìna lưu lại một thời gian lâu, trơ thành một trưởng lão, vị ấy nghĩ: “Chỗ này an cư rất tốt. Ta sẽ đi mời bạn”. Bởi thế vị ấy ra đi đến Thùpàràma. Khi đến nơi, một trưởng lão đồng hàng ra đón, cầm bát và thi lễ.
32. Vị khách tăng đi vào chỗ trú dành cho mình. Ông nghĩ: “Chắc bạn ta sẽ đem cho ta ít bơ hoặc nước ngọt, hay cái cái gì để uống. Vị ấy ở đây đã lâu”. Ðêm ấy, ông không được một thứ gì. Buổi sáng, trưởng lão lại nghĩ: “Bạn sẽ gởi đến cho ta cháo và thức ăn nhận được từ nh?ng ngoại hộ cư sĩ”. Khi không có ai mang gì đến, trưởng lão nghĩ: “Không có ai mang đến. Có lẽ họ sẽ cúng khi chúng ta đi vào thành”. Sáng sớm, các đại đức cùng vào thành. Khi họ đã đi hết một con đường phố và chỉ được muỗng cháo, họ ngồi tại một nhà mát để uống cháo ấy.
33. Vị khách tăng nghĩ: “Có lẽ không có sự bố thí từng người. Khi đến giờ ăn, chắc người ta sẽ cho món ăn đặc biệt”. Khi đến giờ, họ cũng chỉ ăn cái gì đã xin được trong khi đi khất thực. Khách tăng hỏi: “Bạch đai đức, tại sao vậy? Ngài sống kiểu đó suốt năm sao? – “Vâng, hiền giả”. -“Bạch đại đức, Pàcìnakhandaràjà rất tiện nghi, chúng ta hãy đến đấy”. Khi trưởng lão khách tăng rời khỏi đô thị bằng cửa nam, thì, gặp bạn đang đi trên đường. Trưởng lão hỏi: “Bạch đại đức, đi đâu vậy?”- “Thế không phải hiền giả đã khuyên tôi đi Pacìnà sao? – “Nhưng, sao lại như thế? Ðại đức không có một vật dụng nào cả, tại một nơi đã ở lâu đến thế?” – “Ðúng thế, hiền giả. Giường và ghế thuộc của tu viện, đã được để lại đúng chỗ của nó.. Không có vật gì khác”. -“Nhưng bạch đại đức, tôi đã quên lại đấy chiếc gậy chai dầu, và túi đựng dép. “- “Hiền giả đã tích trử nhiều đến thế, chỉ mới ở một ngày?” “Vâng thưa đại đức”.
34. Vị trưởng lão khách rất hài lòng tán thán: “Ðối với những người như hiền giả, thì các nơi đều là trú xứ ở rừng. Tu viện Thùpàràma là nơi xá lợi của bốn đức Phật được tôn thờ, có sự nghe Pháp thích đáng trong điện Brazen có Ðại diện để chiêm ngưỡng, và có thể thăm viếng các trưỡng lão. Nó giống như thời Phật tại thế. Chính ở đấy, bạn nên sống”. Hôm sau, trưởng lão ôm y bát ra đi một mình. Trú xứ không là một chướng ngại cho một người như vậy.
35. 2). Gia đình gồm những quyến thuộc hoặc những cư sĩ ngoại hộ. Bởi vì, ngay cả gia đình thí chủ cũng là một chướng ngại cho những người nào sống liên hệ mật thiết với họ theo kiểu mà kinh mô tả: “Vị ấy, vui khi chúng vui”. (S. ii, 11), một người không đi đến một tu viện để nghe Pháp nếu không có những người trong gia đình thí chủ đi theo. Nhưng ngay cả cha mẹ cũng không là chướng ngại cho một người như tỷ kheo trẻ cháu của một trưởng lão ở tu viện Korandaka.
36. Ðại đức đến Rohana để học. Chị của trưởng lão luôn luôn hỏi tin tức con trai. Bởi thế, một ngày kia, trưởng lão đi Rohana để đưa cháu về.
37. Vị đại đức Tỳ kheo trẻ cũng nghĩ “Ta ở đây đã lâu, bây giờ ta có thể đi thăm y chỉ sư của ta và thăm bà tín nữ ra sao”. Rồi đại đức rời Rohana. Hai thầy trò gặp gỡ trên bờ sông Mahaveli đại đức hầu trưởng lão dưới gốc cây. Khi được hỏi: “Con đi đâu? Ðại đức nói ra ý định của mình. Trưỡng lão nói: “Con làm phải đấy. Bà tín nữ cứ hỏi thăm con hoài nên ta phải đến đây. Con đi đi, ta sẽ ở lại chỗ này an cư mùa mưa”. Và trưởng lão bảo tỷ kheo ra đi. Ðại đức đến tu viện vào đúng ngày để an cư mùa mưa. Trú xứ dành cho đại đức tình cờ lại là trú xứ của phụ thân đại đức đã nhận trách nhiệm cúng dường.
38. Hôm sau, thân phụ đại đức đến nơi hỏi: “Bạch chư đại đức trú xứ chúng tôi cúng rơi vào tay người nào vậy?” Khi ông được biết nó rơi vào một khách tăng trẻ, ông đến bên vị ấy đảnh lễ và thưa: “Bạch đại đức, có một tục lệ bắt buộc đối với vị nào an cư tại trú xứ chúng tôi”. -“Lệ ấy như thế nào?”- “Ðó là, chỉ nhận đồ ăn khất thực tại nhà chúng tôi suốt ba tháng mùa mưa, và cho chúng tôi được biết ngày nào sẽ ra đi, sau lễ Tự tứ”. Ðại đức im lặng nhận lời. Cư sĩ trở về bảo vợ: “Có một đại đức khách tăng đã ở trong trú xứ của chúng ta để an cư mùa mưa. Bà hãy săn sóc vị ấy chu đáo”. Bà vâng lời, sửa soạn những thức ăn loại cứng và loại mền cho tỷ kheo. Mặc dù đại đức đi đến nhà cha mẹ, vào giờ ăn, mà không ai nhận ra.
39. Sau khi đã khất thực ở đấy ba tháng mùa mưa, đại đức báo tin sắp ra đi. Bà con bảo: “Bạch đại đức, xin hãy lưu lại đến mai”. Hôm sau, họ mời đại đức, cúng một tảng đường và chín mét vải, và để đại đức ra đi. Ðại đức chúc lành cho họ, rồi trở về Rohana.
40. Y chỉ sư của đại đức đã xong lễ Tự tứ, đang trên đường về. Họ gặp nhau tại chỗ trước kia. Ðại đức làm những bổn phận của người đệ tử dưới gốc cây. Vị trưởng lão hỏi: “Con có gặp bà tín nữ không?” -“Bạch, có”. Và kể cho trưởng lão nghe những gì đã xảy ra. Rồi đại đức thoa dầu vào chân thầy, làm một thứ nước đường cho ngài, và cúng dường ngài chín mét vải. Sau khi đảnh lễ trưởng lão, đại đức bạch: “Chỉ có Rohana là thích hợp cho con”, và ra đi. Trưởng lão cũng trở về tu viện của ngài, và hôm sau đi vào làngKorandaka