Thanh Tịnh Đạo – Chương VII

Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu

46. Không có một người nào cao cả hơn Ngài về những đức tính đặc biệt, không có ai sánh bằng Ngài, do đó Ngài được gọi là đấng không ai trên (Vô thượng sĩ). Ngài vượt toàn thế gian về giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Như đã được nói: “Ta không thấy trong thế giới với chư thiên, ma. Phạm vương, sa môn và Bà-la-môn, với các tiểu vương (Princes) và loài người, không một người nào toàn vẹn hơn ta về giới: (S i, 139) v.v… Cũng thế trong kinh Aggapasàda (A. ii, 34; Iti. 87) và các kinh, và trong đoạn kệ khởi đầu “Ta không có thầy, và người như ta không có trong toàn thế giới”. (M. i, 171)

47. Ngài dẫn đạo (Sàreti) những con người đáng được dẫn đạo (Purisadamma), nên Ngài là bậc dẫn đạo những người đáng dẫn đạo (Purisadammasàrathi): Ngài làm cho thuần thục, uốn nắn chúng. Những người, phi nhân và loài vật thuộc nam tánh (purisa) chưa được điều phục (dametunyuttà) thì gọi là “những kẻ đáng được điều phục” (purisadammà). Vì những con thú giống đực, như Long vương Apalàla, Cuilodara, Mahodara, Aggisikha, Dkùmasikha, Long Vương Àravàia, con voi Dhanapàlaka, v.v… đều được Ðức Thế Tôn điều phục, xa lìa khỏi mọi độc (cấu uế) và an trú trong các giới luật và tam quy. Cũng vậy, những người đàn ông như Saccaka con trai Ni Kiền tử, Ambattha đệ tử Bà-la-môn giáo, Pokkharasàti, Sopadanda, Nùtadanta, v.v… Và những phi nhân nam như Alavaka, Sùciloma và Kharaloma Ðế thích vua cõi trời, vân vân đều được điều phục uốn nắn theo những phương tiện kỷ luật khác nhau. “Này Kosi, ta điều phục những người đáng được điều phục khi thì ôn hoà, khi thì cứng rắn, khi thì vừa ôn hoà, vừa cứng rắn”. (A. ii, 112).

48. Ðức Thế Tôn lại còn điều phục những người đã được điều phục, bằng cách tuyên bố sơ thiền, v.v… Lần lượt cho những người có giới đã được thanh tịnh, v.v… Và công bố con đường tiến lên những đạo lộ cao cả hơn đến bậc Dự lưu, v.v…

Hoặc những chữ”Vô thượng sĩ điều ngự trượng phu“có thể xem là một mệnh đề. Vì Ðức Thế Tôn dẫn đạo những người đáng điều phục cách nào để ngay trong một thời (giáo hoá) họ có thể đi khắp tám hướng không ngăn ngại (nhờ tám giải thoát). Do đó ngài được gọi là “Bậc đạo sư vô thượng của những người đáng điều phục“, như đoạn kinh sau: “này các tỷ kheo, được hướng dẫn bởi người luyện voi, con voi được luyện đi theo một hướng…” (M. iii, 222)

Thiên Nhân Sư

49. Ngài dạy dỗ (anusàsati) bằng phương tiện cái hiện giờ và ở đây, bằng đời sau, và bằng mục đích tối hậu, tùy trường hợp thích đáng, cho nên Ngài là bậc Thầy (Sattha).

Hơn nữa, theo Niddesa, “Ðạo sư” Ðức Thế Tôn là bậc dẫn đạo đoàn lữ hành, vì Ngài đưa những người lữ hành về đến nhà (sattha: caravan) Như một người dẫn đạo lữ hành đưa chúng qua sa mạc đầy những kẻ cướp, không thức ăn, không nước uống, khiến cho chúng vượt qua, vượt qua một cách thích nghi, đưa chúng đến mảnh đất an ổn, cũng thế Ðức Thế Tôn làm bậc dẫn đạo đoàn lữ hành, người đưa qua sa mạc sinh tử”. (Nd1. 446)

50. Của chư thiên và loài người: được nói lên để chỉ những kẻ tốt nhất, những kẻ có khả năng, tiến hoá. Vì Ðức Thế Tôn đạo sư còn giáo hoá cả đến những súc sinh. Ngay loài súc sinh nhờ được nghe diệu pháp của Thế tôn cũng có thể được lợi lạc, được tái sinh vào một cảnh giới thuận tiện cho sự tiến hoá, với sự thuận lợi này, vào kếp tái sinh thứ hai hay thứ ba, chúng có thể dự phần vào đạo và quả.

51. Thiên tử (Mandùka) nắm được một tướng ở trong tiếng nói của Ðức Thế Tôn. Một kẻ chăn bò đang chống gậy đứng gần đấy, đè chiếc gậy lên đầu con cóc nghiền nát nó. Nó chết, và ngay tức thì tái sinh ở một cung điện vàng son thuộc cõi trời ba mươi ba (tàvatimsa). Nó thấy mình ở đấy như thể vừa tỉnh thức từ một giấc ngủ, giữa một đám tiên nữ, và nó thốt lên “vậy ra ta đã được tái sinh ở đây. Ta đã làm nghiệp gì?” Khi tìm hiểu lý do, nó nhận ra rằng chỉ vì nó đã hiểu được một tướng nơi tiếng nói của Ðức Thế Tôn. Nó bèn đem cung điện cõi trời của nó đi đến Thế tôn và đảnh lễ dưới chân Ngài. Ðức Thế Tôn đã biết chuyện, nhưng cứ hỏi:

Ai đảnh lễ dưới chân ta đấy?
Mà chói sáng quang minh
Của sự thành công
Chiếu sáng khắp xung quanh
Với vẻ đẹp cực kỳ mỹ lệ?

Con cóc trả lời:

Ðời trước con là một con cóc
Lấy nước ao tù làm nhà ở
Chiếc gậy mục tử chấm dứt mạng căn
Trong lúc con đang lắng nghe
Diệu pháp của Ngài.

Ðức Thế Tôn bèn giảng pháp cho nó. Tám vạn bốn ngàn chúng sinh được ngộ nhập pháp. Khi vị thiên tử được nhập trong Dự lưu quả, vị ấy mỉm cười biến mất.

Phật

52. Ngài là Phật, đấng đã giác ngộ với trí thuộc về quả giải thoát vì mọi sự có thể biết đã được Ngài biết (buddha).

Hoặc, Ngài khám phá (bujjhi) bốn chân lý tự mình Ngài, và giác tỉnh cho những người khác chân lý ấy, vì những lý do này và khác nữa, Ngài được gọi là giác ngộ. Ðể giải thích ý nghĩa này, có thể trích dẫn toàn đoạn văn trong Niddesa khởi đầu như sau: “Ngài là đấng tìm ra (bujjhitor) những chân lý, cho nên là Giác giả (Buddha). Ngài là đấng đánh thức chúng sinh, nên ngài là giác giả (Nd1., 457) hoặc có thể giải thích cũng đoạn ấy từ Patisambhida.

Thế Tôn

53 Thế tôn (Bhagava) là một danh từ có nghĩa kính trọng tôn sùng gán cho Ngài, được xem như cao cả nhất trong các chúng sanh, và nổi bật vì những đức tính đặc biệt. Cổ đức có nói:

“Thế tôn là danh từ tốt nhất
Thế tôn là danh từ hay nhất
Ðáng uý phục và tôn kính
Thế tôn do đó là tên của Ngài”.

54. Hoặc giải thích: Tên có bốn loại: ám chỉ giai đoạn của cuộc đời, mô tả một điểm đặc biết hoặc được khởi lên một cách tình cờ một sở đắc đặc biệt. Loại tên sau rốt này, theo thế gian thì gọi là ngẫu hứng. Ở đây, tên chỉ một giai đoạn là người danh từ như “bò tơ” (vaccha), “trâu chưa thuần” (damua), “bò kéo cày” (balivadha) v.v… Tên ám chỉ một đặc điểm như những danh từ “người mang gậy” (dandin), “người che dù” (chanttin), “người mang búi tóc” (sikhin) “kẻ có tay” (karin– con voi), v.v… Tên có ý nghĩa một sở đắc đặc biệt là những danh từ như “người có ba minh” (tevijja) “người có sáu thông” (chalabhinna), v.v… Còn những tên như”sirivaddhaka“ (Người tăng vẻ sáng chói)”Dhanavadđhaka“ (người tăng tài sản) v.v… là những tên khởi lên một cách tình cờ, chúng không có tương ứng với ý nghĩa của danh từ.

55. Tên gọi này, Thế Tôn, là môt danh từ có ý nghĩa một sở đắc đặc biệt; nó không được tạo bởi hoàng hậu Màya hay vua Suddhodhana hay bởi tám mươi ngàn quyến thuộc, hay bởi những vị trời đặc biệt như sakka, Santusita, và những vị khác. Và bậc Tướng quân chánh pháp (sàriputta) nói như sau “Thế Tôn” Ở đây không phải cái tên do mẹ đặt ra. Ðây là một tên phát xuất từ sự giải thoát rốt ráo của những đấng giác ngộ, những đấng Thế tôn, cùng với sự đạt được chánh biến tri dưới cội bồ đề; cái tên gọi Thế tôn “này là một danh xưng dựa trên sự chứng đạt”. (Ps. i, 174; Nd1. 143).

56. Ðể giải thích những đức tính đặc biệt mà danh xưng này ám chỉ, đoạn kệ sau đây được trích dẫn:

Ðấng đạo sư (garu) có phước, lạc (bhagì: blessing);
Ngài là người thường lui tới (bhàjì),
Người sở hữu (bhàgì)
Những gì được phân tích (vibhattavà);
Ngài đã tạo ra sự từ bỏ (bhaggga),
Ngài là người may mắn (bhàgyavà)
Ngài đã phát triển toàn vẹn (subhàtitattane) trong nhiều cách
Ngài đã đi đến tận cùng của các hữu (bhavantago);
nên Ngài được gọi là Thế tôn (bhagavà)

Ý nghĩa những danh từ này cần được hiểu theo phương pháp giải thích trong Niddesa, (Nd1., 142)

57. Nhưng còn một cách khác: “Ngài là người may mắn (bhagyavà), có được sự từ bỏ (bhaggavà), liên hệ đến hạnh phúc (yuttobhagohi), một người sở hữu những gì đã được phân tích (vibbattavà) “Người đã lui tới (bhattavà) “Ngài đã lui được phân tích (vibbattavà) và đã từ bỏ sự đi vào những cõi hữu, nên ngài là Thế tôn”.

This entry was posted in Kinh Pháp, Phật Giáo. Bookmark the permalink.