Thanh Tịnh Đạo – Chương VII

Niệm Thí

107. Muốn tu tập niệm thí nên chuyên bố thí một cách tự nhiên, thường cho và san sẻ. Khởi đầu, nên có quyết định: “Từ nay trở đi, lúc nào có người hiện diện để nhận, thì ta sẽ không ăn dù chỉ một miếng, nếu không bố thí một cái gì trước đó”. Và ngay hôm ấy hành giả nên bố thí một vật gì bằng cách san sẻ tùy phương tiện và khả năng, với những người có những đức tính đặc biệt. Khi đã nắm được tướng trong việc này, hành giả nên đi vào độc cư và tưởng niệm đến sự bố thí của mình trong những đức tính đặc biệt của nó là không có lòng tham v.v… Như sau: “Thật sự là lợi lạc cho ta, thật là lợi ích lớn cho ta, rằng trong cuộc đời bị ám ảnh bởi ô nhiễm của lòng tham (biển lận) ta an trú với tâm không bị ô nhiễm bởi tham. Ta bố thí một cách rộng rãi bàn tay rộng mở, thích thú trong sự từ bỏ, mong được kẻ khác yêu cầu và vui mừng được cho được san sẻ” (A. iii, 287)

108. Ở đây, thật là lợi lạc cho ta: Ta nhất định được những lợi lạc của một người bố thí mà Ðức Thế Tôn đã khen ngợi như sau: “Người cho mạng sống (bằng cách bố thí đồ ăn) thì sẽ được mạng sống hoặc cõi trời hoặc cõi người” (A. iii, 42) và “Một người thường bố thí thì được nhiều người lui tới và mến mộ” (A. iii, 40), và “một người bố thí thì luôn luôn được yêu mến, theo định luật của bậc trí” (A. iii, 41), v.v…

109. Thật là lợi ích lớn cho ta, lợi ích lớn ở chỗ ta đã được giáo pháp, được thân người, lại được an trú với tâm không ô nhiễm vì xan tham…. Vui thích bố thí và san xẻ.

110.”Trong cuộc đời bị ám ảnh bởi ô nhiễm của lòng tham“nghĩa là giữa những chúng sanh có tham tràn ngập. Ðời là chúng sanh, có nghĩa đã được sinh ra. Tham là một trong những hắc pháp làm hỏng bản tính trong suốt tự nhiên của tâm (xem A. i, 10). Tham có đặc tính là không thể chịu nổi sự san sẻ hạnh phúc cho người khác.

111. Ta an trú với tâm không bị ô nhiễm bởi tham: tâm không có tham và những ô nhiễm khác như sân, si v.v… Trong đoạn kinh: “Ta sống đời tại gia với tâm giải thoát” (A. iii, 267; A. v, 331) v.v… Câu này được nói cho người thuộc dòng họ Sàkya tên Mahànàmà, một người đắc dự lưu quả, khi vị này hỏi về một chỗ trú cho tâm. Trong trường hợp này, ý nghĩa là “Ta sống vượt qua tham”. (sân, si, v.v…)

112. Bố thí một cách rộng rãi: rộng rãi trong sự bố thí. Với bàn tay rộng mở: với những bàn tay thanh tịnh, luôn luôn rửa sạch để cho tặng quà một cách cẩn trọng bằng chính tay mình. “Ta thích thú trong sự từ bỏ” là thích thú trong việc chuyên tu hạnh xả ly (vessagga). Mong được người khác yêu cầu: (yàcayoga) quen với sự được xin (yàcana-yogga). Nếu đọc yàjayogathì có nghĩa là chuyên tâm vào (yutta) sự dâng cúng (vàja). “Vui mừng được cho, được san sẻ”, có nghĩa là vị ấy suy nghĩ như sau: “Ta đem cho và san sẻ những gì ta dùng, và ta thích cả hai điều ấy.

113. Khi hành giả tưởng đến sự bố thí với những đức tính đặc biệt là khỏi có những cấu uế của tham v.v… Thì” ngay khi ấy, tâm hành giả không bị tham, sân si ám ảnh, được sự chất trực do cảm hứng từ hạnh bố thí”. (A. iii, 287)

Bởi thế, khi hành giả đã nhiếp phục những triền cái theo cách đã nói (đ. 66), thì những thiền chi khởi lên trong một sát na. Nhưng do “sự sâu xa của những đức đặc biệt của bố thí, hoặc do hành giả bận tưởng niệm những đức đặc biệt nên thiền đạt đến không phải là định an chỉ mà chỉ là định cận hành.

114. Khi một tỷ kheo chuyên tâm tưởng niệm về bố thí, vị ấy đâm ra ưa bố thí, thích sự vô tham, hành xử phù hợp với tâm từ, vô uý. Vị ấy có nhiều hạnh phúc an lạc. Và dù không tiến lên quả vị cao, ít nhất hành giả cũng hướng đến một cảnh giới an lạc.

Người thực sự có trí
Thì thường xuyên tưởng niệm
Công đức và bố thí
Ðầy tiềm năng mãnh liệt.

Niệm Thiên

115. Người muốn tu tập niệm thiên cần phải có những đức tính đặc biệt về tín, v.v… Với chư thiên làm chứng như sau: “Có chư thiên thuộc cõi Tứ thiên vương thiên (devà càtumaha- rajikà), chư thiên thuộc cõi tam thập tam (devà-tàavatimsà), Dạ ma thiên, Ðâu suất thiên (tusità hài lòng), Hoá lạc thiên (thích biến hoá nimmànarati). Tha hoá tự tại thiên (paramita vasavatti), Phạm chúng thiên (Brahamakayikà) có những chư thiên cao hơn thế nữa. Và chư thiên chúng này có đức tin rằng, sau khi mạng chung ở cõi này, họ sẽ tái sinh ở cõi kia, và đức tin ấy cũng có nơi ta. Và chư thiên chúng ấy có giới… đa văn… Bố thí.. Trí tuệ, cho nên khi mạng chung ở cõi này thì tái sinh ở cõi kia, và trí tuệ ấy cũng có nơi ta. (A. iii, 287)

116. Tuy nhiên, trong kinh nói: “Này Mahanàma, khi nào một thánh đệ tử niệm tín, niệm giới, niệm văn, niệm thí, niệm tuệ của chính mình và của chư thiên, thì khi ấy tâm vị ấy không bị tham, sân, si ám ảnh… (A. iii, 287). Mục đích là để chứng mimh rằng những đức đặc biệt về giới, v.v… Nơi chính mình cũng là giới, v.v… Nơi chư thiên, lấy chư thiên làm chứng, như Luận có nói: “Vị ấy tưởng niệm những đức tính đặc biệt của mình, lấy chư thiên làm chứng”.

117. Khi hành giả niệm tín, thí giới, văn, Tuệ của chư thiên, rồi niệm những đức ấy nơi chính mình thì “tâm hành giả không bị dục tham, sân, si ám ảnh được chánh trực, vì được cảm hứng từ chư thiên” (A. iii, 288). Bởi vậy, khi hành giả đã dẹp được những triền cái với cách đã nói (đoạn 66), những thiền chi khởi lên trong một tâm sát-na. Nhưng do tính cách sâu xa của những đức tính v.v… Hoặc vì tâm hành giả bận tưởng niệm nhiều đức đặc biệt, nên chỉ đạt cận hành định, không đắc định an chỉ.

118. Khi một tỷ kheo chuyên tâm tu tập niệm thiền, vị ấy được chư thiên thương tưởng, có niềm tin sâu xa hơn có nhiều hạnh phúc an lạc. Và dù không đắc quả gì cao, ít nhất vị ấy cũng hướng đến một cảnh giới tốt đẹp.

Người thực sự có trí
Thì việc làm thường xuyên
Là tưởng niệm chư thiên
Nhiều quyền năng an lac.

Tổng Quát

119. Ðể giải thích chi tiết về những tưởng niệm này, sau câu “Khi ấy tâm hành giả được sự chất trực, vì cảm hứng từ đấng Toàn giác”, được nói thêm rằng: “Này Màhànàma, khi tâm của một thánh đệ tử chất trực thì ý nghĩa đem lại cảm hứng cho vị ấy, và sự áp dụng pháp làm cho vị ấy hân hoan. Do hân hoan sanh, hỷ sanh nơi vị ấy”. (A. iii, 285).

Câu ý nghĩa đem lại cảm hứng cho vị ấy là sự hài lòng (hỷ túc) do ý nghĩa sau đây được gợi lên: “Ðức Thế Tôn là như vầy vì người là bậc A-la-hán” (đoạn 2). Pháp đem lại cảm hứng cho vị ấy là nói đến hỷ túc do kinh điển đem lại. Sự thực hành pháp làm cho vị ấy hân hoan là nói đến cả hai thứ hỷ túc. (xem MA. I, 175)

120. Và ở trường hợp niệm thiên “có cảm hứng từ chư thiên”, nghĩa là tâm khởi lên trong giai đoạn đầu, cảm hứng từ chư thiên hoặc tâm khởi lên trong giai đoạn sau cảm hứng từ những đức tính đặc biệt giống như đức chư thiên, đưa đến cảnh giới chư thiên (xem đ. 117)

121. Những tưởng niệm này chỉ thành công ở những thánh đệ tử… Vì những đức tính đặc biệt của đấng Thế tôn, của Pháp, của Tăng, chỉ rõ đối với những vị thánh đệ tử vì họ có giới không bị rách lủng, vá lốm đốm, có thí không ô nhiễm bởi xan tham, và có những đức tính tương tự với đức tính chư thiên.

122. Trong kinh Mahànàma (A. iii, 285), những tưởng niệm này được Thế tôn trình bày chi tiết chỉ cho một vị Dự lưu một chỗ trú khi vị này hỏi về một chỗ trú.

123. Cũng thế, trong kinh Godha chúng được giảng giải để dạy một Thánh đệ tử nên tịnh tâm mình nhờ phương tiện các tùy niệm, và do đó đạt đến những thanh tịnh cao hơn trong ý nghĩa tối hậu như sau: Ở đây này các tỷ kheo, một Thánh đệ tử niệm về Ðức Thế Tôn như sau: “Ðức Thế Tôn là như vậy vì Ngài đã thành mãn… Tâm vị ấy có sự chất trực khi tưởng niệm như vậy. Vị ấy đã từ bỏ, giải thoát, nổi lên khỏi tham dục, tức năm dục. Có những hữu tình đạt được thanh tịnh nhờ lấy niệm này làm chỗ trú” (A. iii, 321)

124. Và trong kinh Sambàdhokàsado, tôn giả Mahà- kaccàna giảng dạy những pháp tưởng niệm được giảng là chứng đạt sự rộng mở làm cho tâm được thanh tịnh, và điều này, nói một cách tuyệt đối- chỉ hiện hữu nơi một Thánh đệ tử. “Chư hiền, thật kỳ diệu thay, thật hy hữu thay, Thế tôn, bậc trí giả, bậc kiến giả, bậc A-la-hán, chánh đẳng giác đã chứng ngộ và đạt được sự mở rộng khỏi bị trói buộc, nhờ vậy các loài hữu tình được thanh tịnh, vượt khỏi sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt đến chánh lý, chứng ngộ niết bàn, đó là sáu tùy niệm xứ. Này chư hiền lấy cái này làm đối tượng, ở đây một số loài hữu tình được thanh tịnh (A. ii, 314-5).

125. Cũng vậy, trong kinh Uposatha, sáu tùy niệm cũng vậy, trong kinh Uposatha sáu tùy niệm được giảng giải để chỉ rõ sự vĩ đại của giới Uposatha kể như một đề mục thiền khiến tâm thanh tịnh, dành cho một Thánh đệ tử tuân giữ giới Upesatha (tám trái giới): “Này Visàkhà, thế nào là Upesatha của bậc thánh? Ðó là sự tuần tự làm cho thanh tịnh tâm còn cấu uế vì những khuyết điểm ở đây, này Visàkhà, một Thánh đệ tử niệm Phật.” (A. i, 206)

126. Và trong sách mười một Pháp khi một thánh đệ tử hỏi: “Bạch Thế tôn, làm thế nào để an trú khi chúng con trú với nhiều cách khác nau?” (A. v, 328) những pháp này được giảng cho vị ấy để chỉ cách an trú như sau: “Này Mahànàma, người có tín thì thành công, không phải người không có tín. Người có tinh tấn… Người có niệm được an trú.. Người có định… Người có Tuệ, này Mahànàma, thành công không phải người không tuệ. Sau khi đã tự mình an trú trong trong nắm ấy, này Mahànàma ngươi nên niệm Ðức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn là như vậy vì Ngài là bậc đã hoàn mãn (arahata) (A. v, 329-32)

127. Tuy nhiên, người thường cũng có thể niệm sau này nếu có những đức tính đặc biệt như giới thanh tịnh, v.v… Vì đù chỉ do nghe nói, tâm hành giả cũng được an tịnh nhờ vậy những triền cái lắng xuống. Trong niềm hoan hỉ tối thượng, hành giả phát triển tuệ mà còn đắc quả A-la-hán như Trưởng lão Phussadeva trú tạiKajakandhakàra

128. Một lần Trưởng lão trông thấy hình ảnh Thế tôn do Màra biến hoá. Ngài nghĩ: “Lành thay hình ảnh này, mặc dù còn tham, sân, si huống nữa là sự tốt đẹp của Ðức Thế Tôn khi Ngài hoàn toàn không có tham, sân, si” và trưởng lão đạt được hỉ với Thế tôn là đối tượng, và nhờ tăng trí tuê, Ngài đắc quả A-la-hán.

Chương bảy gọi là “Sáu tùy niệm” trong luận về tu tập Định, trong Thanh tịnh đạo được soạn ra vì mục đích làm hoan hỉ những người lành.

http://www.tangthuphathoc.net/phapluan/thanhtinhdao-07.htm

 

This entry was posted in Kinh Pháp, Phật Giáo. Bookmark the permalink.