Chết Đi Về Đâu

TẬP TỤC VÀ QUAN NIỆM TỐNG TÁNG

Người ta cho rằng Ngài Đường Tam Tạng Huyền Tráng khuyên sau khi một người qua đời, trong suốt tám giờ đồng hồ, người thân không nên động chạm vào thi thể của người chết. Dĩ nhiên, không có bất kỳ một dữ liệu nào trong kinh tạng Pàli lẫn kinh tạng Đại thừa có đề cập đến chi tiết này. Đây được tạm gọi là học thuyết “thận trọng” về tiến trình tái sinh giữa chết và sống do ngài đặt ra. Học thuyết này có ý nghĩa với một số người có phản ứng tiếc nuối, không chấp nhận hoặc phủ định cái chết. Họ cứ níu kéo mãi khiến dòng cảm xúc như một thần thức luôn quan sát, canh giữ ngày đêm, không muốn cho bất kỳ người nào động

vào cơ thể vật lý của mình. Bởi sự động chạm đó làm cho họ có ảo giác rằng người ta đang cướp, giết, làm thương tổn hoặc hủy hoại mạng sống của mình. Cho nên phản ứng kháng cự trỗi dậy, lúc đó lòng sân cũng xuất hiện. Tiến trình tái sinh đi kèm với lòng sân sẽ làm cho con người có bản tính nóng nảy, cau có, khó chịu, bực dọc, và khó bình tĩnh trước những biến cố cuộc đời.

Tổ Huyền Tráng đã khuyên đừng nên tin vào năm tháng, ngày giờ. Ứng dụng cách thức tám tiếng nhằm tạo cơ hội cho phản ứng cảm xúc của người quá cố không diễn ra theo hướng tiêu cực, đồng thời giúp tiến trình tái sinh được diễn ra an toàn. Như vậy, một số người đặt câu hỏi tại sao không phải là một tiếng, hai tiếng, hoặc ba tiếng mà phải là tám tiếng?

Trong các quyển sách liên hệ đến duy thức học Phật giáo, ngài Huyền Tráng có đưa ra sự kiện như là một minh họa nhưng không đưa ra lời giải thích. Có thể suy luận bằng cách thức tương đối rằng, số 8 trong đạo Phật tượng trưng cho sự kiết tường và an lành, số 7 tượng trưng cho sự trọn vẹn và đầy đủ. Ngoài ra, có một con số của nền văn hóa Trung Hoa ứng với số 8 đó là số 9. Trong Phật giáo, Tổ Huyền Tráng không sử dụng số 9 mà là số 8, nhằm thiết lập sự thận trọng trong 8 giờ đồng hồ, tạo sự an toàn và kiết tường cho người sống lẫn kẻ chết. bởi lẽ chỉ có tiến trình tái sinh an toàn mới có thể mang hạnh phúc cho những người còn lại.

Có sự khác biệt khá lớn về quan niệm hạnh phúc giữa người phương Đông và người phương Tây. Đối với người phương Tây, phục vụ cho người sống là điều kiện thiết yếu dẫn đến hạnh phúc. Sau khi chết rồi, dù vẫn tổ chức đám tang linh đình, nhưng việc cúng kiến đối với họ không còn quan trọng. Bởi vì người phương Tây quan niệm, sau cái chết chỉ có hai con đường. Nếu đời sống tín ngưỡng tôn giáo thuần tính theo những gì  được  dạy  trong  kinh  thánh,  hương  linh  sẽ  được  về  bên  đức

Chúa, và hưởng nhân đức Chúa. Hoặc con đường thứ hai là hương linh phải tái sinh vào hỏa ngục đời đời kiếp kiếp để chịu sự trừng phạt. Hai tiến trình đó là sự lựa chọn gắn liền với bản chất niềm tin, ngoài ra không có một hình thái tái sinh nào khác. Do đó, người phương Tây không quan trọng sau cái chết.

Ngược lại, đối với người châu Á, chăm sóc cho người chết là tạo hạnh phúc cho những người còn sống. Ta thấy có những người thân dù đã ra đi 80 năm hay 100 năm mà ông bà, hoặc cha mẹ mình đến ngày giỗ vẫn còn rơi nước mắt, vẫn tảo mộ, cúng kiến, cầu nguyện cho hương hồn được nhẹ nhàng ra đi.

Ngày nay, rất ít người ứng dụng theo tập tục do ngài Huyền Tráng đề nghị. Do vì ảnh hưởng của nền văn hóa Khổng giáo, nhất là kinh dịch nên người ta thường tuân thủ theo quy tắc năm tháng, ngày giờ liên hệ đến tốt, xấu cho những người còn lại. Từ cái nhìn của đạo Phật, đây là một quan niệm sai lầm. Tại sao quan niệm sai lầm này lại có tuổi thọ lâu dài đến mấy ngàn năm lịch sử, và vẫn tiếp tục khống chế nhiều người, cho dù người đó là vô thần, không tin về cái chết hay một đời sống sau khi chết?

Lý giải cho điều này là bởi nỗi sợ hãi của con người khi phải đối diện với cái chết. Là người tu sĩ, tôi có cơ hội tiếp xúc với rất nhiều gia đình không có niềm tin, nhưng đến lúc phải đối diện cái chết của người thân, họ lại hoảng sợ và lý giải rằng, nếu không tẩm liệm theo đúng quy tắc năm tháng, ngày giờ có thể dẫn đến hiện tượng trùng tang, ly tán, tam tai hay cái chết cho chính bản thân. Chính nỗi sợ hãi này là cơ sở dữ liệu để nuôi dưỡng những quan niệm sai lầm, làm cho nó có tuổi thọ lâu dài, điều mà đạo Phật gọi đó là vô minh.

Ngoài ra, nhiều người còn có tập tục làm lễ tẩy tịnh cơ thể của người chết để con cháu trong gia đình làm ăn được khấm khá về sau. Đây cũng là một quan niệm sai lầm về phương diện nhân quả. Con cháu có làm ăn khấm khá hay không là hoàn toàn

lệ thuộc vào đạo đức nhân quả của chúng. Cha mẹ chỉ tạo cộng hưởng về nghiệp, nó có thể ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp, về mặt này hay mặt khác, nhiều hay ít chứ không thể quyết định tất cả. Vì bản chất nhân quả của từng con người quyết định hạnh phúc hay khổ đau của họ.

Có những tình huống, người chết không nằm trong tư thế thoải mái, do vì nỗi đau vật lý làm cơ thể họ bị co quắp lại, để phóng thích nỗi đau ra bên ngoài như một nhu cầu. Khi ấy, các âm công làm công việc tẩn liệm phải dùng rượu hoặc cồn thoa vào cơ thể cho giãn ra, theo cách thế tạo sự an tường và nhẹ nhàng cho người ra đi. Đây được gọi là lễ tẩy tịnh, và thực hiện điều này không có nghĩa là để con cháu được sung túc về sau, hoặc ngược lại bị nghèo khó. Nếu lý giải một cách sai lầm thì tình huống các chiến sĩ chết ngoài sa trường, chẳng những không nằm ở tư thế đẹp mà còn ở tư thế đầu chân lộn ngược, thế mà gia đình những liệt sĩ này vẫn giàu có. Vậy thì phải chăng tư thế chết có liên hệ đến hạnh phúc hay khổ đau? Dĩ nhiên không. Tại sao các chiến sĩ chết trận tập thể không có tư thế hoặc mồ mả đẹp mà họ vẫn mang lại cho gia đình nhiều lợi lạc?

Chỉ cần so sánh như thế đủ cho thấy quan niệm và phong tục tập quán năm tháng, ngày giờ, tốt xấu, may rủi hoàn toàn không có cơ sở về mặt nhân quả. Thế mà người ta vẫn cứ tin, vì tin nên họ lý giải nó dưới góc độ thà dư thừa còn hơn thiếu, dư thì không sao mà thiếu là ân hận suốt đời. Chính vì sự an ủi này mà các phong tục tập quán sai lầm vẫn tiếp tục có điều kiện và cơ sở để sống.

Năm 2004, tôi có dịp sang thuyết giảng tại bang California, Mỹ. Sau buổi pháp thoại tại một ngôi chùa, sư bà trụ trì có mời tôi cùng vài người Phật tử đi tham quan và làm lễ tại một nghĩa trang mà sư bà vừa mới mua. Đây là nghĩa trang đầu tiên của Phật giáo tại Mỹ, rất nhiều người đã đăng ký mua đất tại đây.

Hôm đó, có một người nói với sư bà như sau:

– Thưa sư bà, cho con đăng ký một chỗ kế bên đức Bồ-tát Địa Tạng, bao nhiêu tiền con cũng sẵn sàng.

Nghe thế, tôi mới hỏi:

– Tại sao cô lại muốn đăng ký miếng đất kề cận đức Bồ-tát Địa Tạng?

– Thưa thầy, ở dưới nước rất lạnh, xung quanh đó côn trùng và nhiều loài bò sát sẽ cắn, nhưng nếu ở cạnh và có sự bảo hộ của đức Bồ-tát Địa Tạng, mình sẽ được an toàn.

Đây là quan niệm của rất nhiều người. Do vì sợ thân thể bị hư thối, mục nát dưới nước nên có người đã chọn con đường hỏa thiêu. Một số khác lại lý luận rằng nếu đem hỏa thiêu sẽ bị nóng tột độ, chịu không nổi nên phải chọn con đường chôn cất. Sự lựa chọn giữa thiêu và chôn được gắn liền với cái mà họ cho là dòng cảm xúc hay thần thức của mình vẫn còn ở bên cạnh để canh giữ, vẫn tiếp tục cảm nhận được sự nóng lạnh mà trên thực tế dòng cảm xúc đó đã bị cắt đứt, chính quan niệm sai lầm này dẫn đến nhiều sự lựa chọn sai lầm khác.

Chùa Giác Ngộ của tôi có thờ khoảng 5000 lọ cốt (5000 thi thể) được thu nhỏ trong từng chiếc lọ. Nhiều Phật tử đã nảy ra sáng kiến đăng ký giữ chỗ (lọ cốt) trước ở chùa, vì tâm lý sợ đến lúc mình mất đi sẽ không còn chỗ. Khi được hỏi lý do vì sao phải đăng ký chỗ trước khi đang còn sống khỏe mạnh như thế này? Một số người đã trả lời rằng họ thích ở chùa để được nghe kinh kệ mỗi ngày và sớm được siêu sinh thoát hóa.

Quan niệm sai lầm này đã làm cho khá nhiều người nghĩ rằng sau khi chết thần thức của họ sẽ được giữ lại với thi thể vật lý được tồn tại dưới dạng tro cốt. Nếu quan niệm đó không sớm tháo gỡ thì tiến trình tái sinh sẽ là trở ngại và ách tắc. Bởi người ta đã đẳng thức hóa cơ thể vật lý này là cái tôi, là sự sống của mình, nên khi mạng sống con người chấm dứt, lẽ ra thần thức phải thoát ra, tiếp tục tìm một mầm sống mới để tái sinh; đằng này lại cho rằng cơ thể vật lý này là của mình vĩnh viễn, muốn đặt lọ cốt lại để thần thức được nương gá nơi chùa chiền, nhờ thần lực của Tam Bảo giúp mình có thể ra đi dễ dàng. Dĩ nhiên, về tác dụng bảo hộ của Tam Bảo đối với hương hồn là chuyện có thật, nhưng nếu cứ quán niệm và buộc thân thể vật lý này không được rời khỏi thần thức, và ngược lại thần thức phải bám víu vào cơ thể vật lý thì đây sẽ là một ách tắc, trở ngại trên con đường tái sinh. Điểm mà tôi muốn nhấn mạnh là ở đây.

Nóng và lạnh, đau đớn và hạnh phúc, dễ chịu và khó chịu tất cả đều thuộc về dòng cảm xúc. Khi con người qua đời thì dòng cảm xúc cũng đã hết, không nên có khuynh hướng đẳng thức hóa dòng cảm xúc tiếp tục tồn tại trong cơ thể vật lý mà cần giải phóng nó. Hãy thực tập thoải mái theo cách thức sau khi mình qua đời, người thân chôn, thiêu hoặc thậm chí là bỏ thây ngoài đường không ai quan tâm, chăm sóc, hương án cũng không sao. Bởi vì cơ thể đó chỉ là phương tiện để thần thức được gá vào, giống như không có bóng đèn này thì thay vào bóng đèn khác, dòng điện mới thực sự là yếu tố quan trọng, đôi lúc thay bóng đèn mới tạo cơ hội để năng lực của dòng điện được thể hiện một cách trọn vẹn. Quan niệm như thế sẽ làm cho người Phật tử thực sự thoải mái, thong dong, tự tại và không chao đảo trước cái chết, đồng thời tiến trình đó giúp con người sống một cách an lành. Điều quan trọng là quan niệm thoải mái, tự tại về cái chết sẽ dẫn đến cuộc sống an lành, bằng không, nó tạo ra nhiều rắc rối khác.

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.