Nơi Sẽ Sinh Về

LỰA CHỌN CÕI ĐI VỀ

Mấu chốt quan trọng là cần huấn luyện, làm chủ tâm thức trong lúc sống thì khi vô thường, tang tóc đến, ta giữ được trạng thái nhất tâm bất loạn hướng về Tây phương Cực Lạc để ra đi. Hoặc nếu ai thích tiếp tục làm con người ở hành tinh này, mong mỏi mình trở thành nhà khoa học, nhà giáo dục, nhà nghệ thuật, nhà từ thiện v.v… thì hãy hướng tâm về điều này. Khi ấy, người đó lại tiếp tục tái sinh ở những gia đình tương thích về nghiệp cảm để thực hiện phận sự hay mong mỏi đó. Đi theo ước nguyện thì sự ra đi có chỗ để đi về. Cõi đi về của con người là đi theo nghiệp hoặc theo phát nguyện.

Trong bản đồ 10 pháp giới, có 6 pháp giới thuộc cõi phàm, 4 pháp giới thuộc cõi thánh. Trong 4 cõi Thánh có Phật, Bồ-tát, A-la-hán, và Thanh văn (Thanh văn gồm hai loại Độc giác và Duyên giác). Trong 6 cõi phàm gồm: thứ nhất là chư Thiên, nghĩa là con người ngoài hành tinh có phước báu, tuổi thọ, hình thù, sức khỏe, và sự bình an cao hơn con người ở cõi Ta bà này. Thứ hai là nhân, nghĩa là con người chúng ta, sống trong kiếp người ở hành tinh cõi Ta bà này được xem là trung bình về phước và nghiệp.

Thứ ba là A-tu-la, được gọi là các vị thần. Ở Việt Nam, A-tu-la được tôn thờ ở Đình, Bà được tôn thờ ở Miếu. Văn hóa Đình ở miền Bắc gắn liền với chùa, Đình thường được xây dựng cạnh chùa. Đình thờ những vị quan tướng giỏi có công với quê hương xã tắc, còn được gọi là Thần Hoàng của địa phương. Đây là một nghệ thuật nhớ ơn và ghi nhận công đức của những người có công đóng góp cho quê hương xã tắc.

Bà gắn liền với sự hộ mệnh của một số khu vực. Khi vô tình ta nghe nói Đình chỗ này hoặc Bà chỗ kia linh lắm, nếu đó là một sự thật thì biết rằng Ông thần hay Bà thần đó chưa siêu. Sự tồn tại của họ là đày đọa xác thân trong kiếp luân trần sinh giới. May mắn thay nền văn hoá miền Bắc, Đền sát cạnh ngôi chùa nên những vị thần linh đó có điều kiện nương vào cửa Phật, ngộ được lý vô thường, vô ngã mà siêu thoát. Đồng thời, nó cũng là phương tiện giúp cho quý ông khi vào Đình bái viếng có dịp ghé sang lễ bái Phật. Quan niệm sai lầm trong dân gian cho rằng Đình dành cho quý ông, chùa dành cho quý bà. Đình gắn liền với một chính thể, quý ông có cơ hội đến để bàn luận chính trị, và sau những cuộc bàn luận là rượu chè, nhậu nhẹt bê bết.

Trái lại, vào chùa với khung cảnh trang nghiêm, thanh tịnh thì tư cách con người phải nhân từ, đạo đức. Quý ông rất ngại đến chùa vì không thể nhậu nhẹt hay bàn chuyện chính trị. Thực ra, chùa không chỉ dành riêng cho quý bà mà dành cho tất cả mọi giới, mọi thành phần, và mọi lứa tuổi. Văn hóa chùa có Bi, Trí và Dũng. Bi tạo nên tình thương lớn để chia sẻ khổ đau, mang an vui, hạnh phúc cho cuộc đời. Trí tạo ra con đường nhận thức quan, nhân sinh quan chuẩn xác, sống trên nhân quả và đạo đức. Dũng tạo nên sự bất khuất, kiên cường. Do đó, văn hóa Chùa hơn hẳn văn hóa Đình.

Thứ tư là súc sinh, những ai lúc còn sống đặt nặng sự hưởng thụ dục lạc đến độ sa đọa, tâm độc ác, thú tính, hoặc tiếc nuối tài sản, sau khi chết nếu hết phước phải sinh vào loài cầm thú, gia súc. Đó là bất hạnh lớn vì loài thú không phát triển ý thức. Khi mang thân phận của loài cầm thú, gia súc thì chẳng biết đến kiếp nào mới có thể đầu thai làm người. Loài thú trong các rạp xiếc có năng lực ngoại cảm mạnh nên nghe, cảm nhận được ngôn ngữ và thực hành theo sự huấn luyện của con người, nhất là loài chó, cá heo, khỉ…Vì vậy, nghiệp phàm phu của chúng được chuyển hóa, và sau khi chết có thể được giải nghiệp, tái sanh làm con người nhanh hơn. Vấn đề quan trọng vẫn là rũ bỏ và không chấp trước thì mới có thể siêu thoát.

Thứ năm là ngạ quỷ, cảnh giới ngạ quỷ không nằm ở dưới lòng đất mà dân gian thường gọi đó là âm phủ. Trên thực tế không có âm phủ, chỉ có cảnh giới trung chuyển sau cái chết do vì tiếc nuối, bám víu nên không ra đi và tái sinh được mà thôi. Hương linh có thể tồn tại nơi mồ mả, bàn hương án, ở bên cạnh hay trong ngôi nhà của ta, hoặc nơi mà cái chết đã diễn ra, và họ có mặt giữa ban ngày chứ không chỉ vào ban đêm mà thôi. Đa số hương linh đều rất cần sự giúp đỡ của những người còn sống. Do đó, ta không nên sợ ma, vì ma không thể hại con người. Ma là đối tượng đáng thương do vì oan ức, tiếc nuối, hận thù, không biết cách tháo gỡ nên họ cứ lẩn quẩn trong cảnh giới sinh tử không siêu thoát được. Ta cần thực tập lòng từ bi hỗ trợ cho hương linh rủ bỏ thân phận khổ đau thông qua các khoá lễ cầu siêu.

Thứ sáu là địa ngục, địa ngục không có thật, chỉ là cách để răn dạy con người về phương diện nhân quả. So sánh hình ảnh giữa hai cảnh giới ngạ quỷ và địa ngục được mô tả trong Phật Giáo sẽ thấy hình thù, vóc dáng của hai cảnh giới này tương đối  giống  nhau.  Cảnh  giới  ngạ  quỷ  với  đống  xương  khô,  còn

địa ngục với cảnh xử các tội nhân bằng nhiều cách thức chỉ là sự hình dung, mô phỏng mà thôi. Thực tế, không có địa ngục thật mà chỉ có địa ngục ở trần gian. Theo kinh Địa Tạng định nghĩa, địa ngục là nỗi đau được tiếp nối không gián đoạn. Hai vợ chồng sống mà không tâm đầu ý hợp, người này nói một câu thì người kia đáp trả lại, hơn thua nhau từng li từng tí, hận thù chất chồng, khổ đau tiếp nối thì đó được gọi là địa ngục ở trần gian. Hoặc kẻ làm ác liên tục tạo nỗi khổ niềm đau thì xem như đang thiết lập địa ngục cho bản thân.

Trên thực tế chỉ có tám cảnh giới mà trong đó Thanh văn, Duyên giác và A-la-hán là ba danh xưng khác nhau nhưng chỉ chung một trình độ tâm linh, đó là giải thoát – tức là tứ quả. Bậc Thánh chỉ có ba gồm: Phật, Bồ-tát và A-la-hán. A-la-hán được gọi là Thanh văn, Duyên giác, Độc giác. Bậc phàm gồm năm cảnh giới: nhân, thiên, A-tu-la, ngạ quỷ và súc sinh. Tám cảnh giới này là hệ vận chuyển trên tâm thức nghiệp hoặc phước của con người. Vì vậy, khi chết con người đi theo nghiệp hoặc phước. Trong nghi thức Kinh tụng hàng ngày (tổng hợp 49 bài kinh) do tôi biên soạn từ năm 1994 và được ấn tống nhiều lần, ở phần sám có bài “Quán Tưởng” như sau:

Chúng sanh rồi phải bị già,
Không ai tránh khỏi lúc qua canh tàn.
Chúng sanh bệnh tật phải mang,
Không ai sống mãi bình an, mạnh lành.
Chúng sanh, sự chết sẵn dành,
Không ai tránh khỏi tử sanh đến kỳ.
Chúng sanh phải chịu chia ly,
Giã từ tất cả, ra đi một mình
Mang theo gánh nghiệp ba sinh,
Theo ta như bóng theo hình không buông.
Nay con nương đấng Pháp Vương
Niết-bàn chứng đắc, cát tường an vui.

Đây là một chân lý cần phải ghi nhận. Tiến trình tái sinh chết đi về đâu lệ thuộc nhiều vào nghiệp. Nghiệp phước dẫn đến cảnh giới tái sinh tốt, hoặc nghiệp tội dẫn đến cảnh giới tái sinh xấu. Tin tưởng vào nhân quả sẽ có một cảnh giới tái sinh an lành. Điều quan trọng nhất phải rũ bỏ sự chấp trước mới có thể ra đi nhẹ nhàng.

Thích Nhật Từ (Chùa Diệu Tú, Hà Nội, ngày 30-6-2008) Ghi chép: Huỳnh Thị Nhã Phương

http://www.daophatngaynay.com

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.