Tử Nạn Và Tử Tù

TỬ TÙ – DƯỚI CÁI NHÌN PHẬT GIÁO

Vào ngày 12 -10 -2006, các phương tiện báo chí đưa tin về tử tù Nguyễn Thị Oanh sinh năm 1967, bị xử tử hình về tội buôn 20 bánh heroin, đang chờ ngày thụ án tại trại giam tỉnh Hoà Bình đã mang thai. Sự kiện này đã gây chấn động trong dư luận, bởi theo qui định của luật pháp Việt Nam và thế giới

cho phép giảm án tử hình đối với tử tù đang mang thai vì tính chất nhân đạo. Bà được giam trong phòng biệt giam có không gian từ 6-9m2, mọi sinh hoạt hằng ngày ngay cả tiểu tiện đều diễn ra trong khoảng không gian đó. Mỗi ngày, người làm công tác quét dọn vệ sinh và đưa cơm vào cho tử tù đều phải qua sự giám sát chặt chẽ của những cán bộ quản giáo. Theo qui định của trại giam, phòng biệt giam nữ chỉ có người nữ mới được phép vào làm công việc dọn dẹp vệ sinh. Nghịch lý thay, có một phạm nhân nam tên Nguyễn Tường Thiên lại được cán bộ trại giam cho phép thực hiện công việc này mỗi ngày trong thời gian nhiều tháng, kết quả là bà mang thai được 3 tháng. Vụ việc xảy ra khiến cho một thiếu uý và một cán bộ quản giáo tại đây bị bắt giam vì tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn tiếp tay cho hành vi sai trái, gây hậu quả nghiêm trọng.

Hình thức giảm án tử hình xuống tù chung thân đối với người có thai mang tính chất nhân đạo hoàn toàn phù hợp với đạo lý nhà Phật. Ngày nay, trên thế giới có một số quốc gia bãi bỏ hoàn toàn khung hình phạt tử hình. Bởi việc xử tử hình sẽ không giúp cho người ăn năn, hối cải có cơ hội làm mới cuộc đời, ngoại trừ sự ăn năn, hối hận về phương diện cảm xúc. Tử tù muốn thể hiện sự hồi đầu cụ thể bằng hành động cũng không có điều kiện, vì cái chết đã cận kề. Nền tảng giáo dục đạo đức Phật giáo nhấn mạnh đến hai phương diện: trừng phạt và giáo dục. Luật pháp trong xã hội lại thiên về sự trừng phạt, còn giáo dục chỉ mang tính hỗ trợ vì nó không thuộc trách nhiệm của trại giam. Ngay cả người làm công tác quản giáo tại trại giam cũng không được huấn luyện về tâm lý tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo giúp người phạm tội có cơ hội tháo gỡ nỗi khổ niềm đau đã gây cho con người và xã hội nói chung.

Trong mỗi ngôi chùa Bắc tông luôn thờ hai hình ảnh. Từ phía chánh điện nhìn ra, bên trái thờ tượng ngài Hộ Pháp – tượng trưng cho ông Thiện, bên phải thờ tượng ngài Tiêu Diện Đại Sĩ – tượng trưng cho ông Ác. Gọi ông Ác không có nghĩa là ngài Tiêu Diện Đại Sĩ chuyên làm việc xấu ác, mà ngài tượng trưng cho luật pháp xã hội để trừng trị kẻ xấu ác, khi biện pháp giáo dục đạo đức trở nên bất lực, không thể chuyển hóa được kẻ xấu. Ngược lại, hình ảnh ngài Hộ Pháp lại tượng trưng cho nền tảng giáo dục và đạo đức. Nói cách khác, giáo dục trong Phật giáo dựa trên nền tảng ứng dụng cả hai khuynh hướng cùng một lúc. Có những con người chỉ cần áp dụng hình thức giáo dục đạo đức là có thể chuyển hóa họ lánh ác làm lành, tự động từ bỏ việc xấu ác trong quá khứ. Chuyển hóa về nhận thức dẫn đến chuyển hóa về hành vi, kết quả là họ đã làm mới cuộc đời. Đây là những người có căn cơ tốt, hạt giống lành, phương tiện thuận lợi, và sự hỗ trợ tích cực. Bên cạnh đó, cũng có những người mà kinh A-di-đà gọi đó là người tính tình cang cường, khó hóa độ, và việc hoá độ về phương diện đạo đức (đức dục) không đủ sức. Lúc đó, khung hình phạt về phương diện luật pháp và hình sự mới thực sự cần thiết.

Tuy nhiên, đạo Phật không chấp nhận khung hình phạt tử hình. Bởi vì giết chết một con người sẽ khiến người đó bị uất hận, khi mà tâm chưa thật sự chuyển hóa và nhất là chưa nhìn thấy việc làm sai trái của mình wần chuyển hóa. Chính vì thế, nên kết hợp cả hai phương diện giáo dục, vừa hình phạt và vừa truyền bá đạo đức song hành với nhau. Nếu chỉ áp dụng duy nhất khung hình phạt, người ta có thể sợ mà không làm. Chẳng hạn như nhìn thấy các loại hình tra tấn dã man, sống trong ngục tù phải đối diện với bóng tối, không có tự do, không có phương tiện giải trí, không được sinh hoạt như một người bình thường v.v… có thể vì sợ nên họ không dám tái phạm nữa. Thế nhưng gốc rễ của hành vi phạm tội vẫn chưa được khắc phục nếu họ mãn hạn tù.

NHÀ TU TRONG NHÀ TÙ

Tại  những  quốc  gia  mà  Phật  giáo  được  xem  là  quốc  giáo như Thái Lan, tử tù và tù nhân được huấn luyện về đạo đức và thực tập thiền định. Hướng dẫn về đạo đức và Phật pháp, đặc biệt về nhân quả nghiệp báo giúp họ ý thức rằng, mỗi hành vi sẽ kéo theo phản ứng tốt xấu. Chính họ là người phải gánh chịu hoàn toàn những hành động do mình tạo ra, không thể trốn chạy được. Hiểu nhân quả, họ sẽ không dám làm. Trong các nhà tù có ứng dụng phương pháp của Phật giáo, người ta cho treo những câu kệ về nhân quả ở mỗi phòng giam, chẳng hạn như: “Phàm làm việc gì cũng nên nghĩ đến hậu quả của nó”, chắc chắn phạm nhân sẽ sợ, không dám làm. Khi phải đối diện với khổ đau, tù tội, phạm nhân mới cảm thấy ăn năn, hối hận. Những bài kệ về giáo dục nhân quả chính là chiếc phao đạo đức cứu vớt, để họ bám vào và từ bỏ tội ác bằng thái độ sám hối chân thành. Điều này tốt cho họ lẫn cộng đồng về sau.

Thái Lan là quốc gia áp dụng phương pháp giáo dục thông qua hình ảnh ngài Hộ Pháp, bằng việc thỉnh mời các vị giảng sư, pháp sư vào các trại tù giảng dạy cho phạm nhân, hướng dẫn họ tu Bát Quan Trai, làm công tác từ thiện xã hội v.v… Những tù nhân phạm tội nhẹ sẽ được người quản giáo dẫn đi làm công quả tại những ngôi chùa khác, và có người giám sát chặt chẽ. Số phạm nhân phạm tội ăn cắp được dẫn đến các trung tâm để làm từ thiện, bằng cách đích thân trao tặng những phần quà cho người đang có nhu cầu. Cảm xúc khi nhìn thấy người khác hạnh phúc vì nhận được một phần quà như vậy khiến họ biết trân quý tài sản được làm ra từ mồ hôi nước mắt. Từ đó về sau, họ không có suy nghĩ muốn cướp đi những tài sản không thuộc về mình.

Điều này tạo nên gốc rễ về lòng nhân ái, nếu ta biết kích thích, tạo chất xúc tác thích hợp thì hạt giống đó sẽ trổi dậy mãnh liệt. Về sau, họ không còn tái diễn lại hành động tội ác nữa. Sau khi học Phật pháp xong, tù nhân được tổ chức thi giáo lý ngay trong tù. Ai được điểm cao và có sự sáng tạo về khuynh hướng đổi đời, người đó sẽ được giảm án. Khuynh hướng sáng tạo  giúp  phạm  nhân  có  hướng  suy  nghĩ  tích  cực.  Nó  như  một phương  châm  làm  thay  đổi  cuộc  đời  họ  về  sau.  Phương  pháp tâm lý trong giáo dục tại Thái Lan rất ấn tượng và hiệu quả.

Ngoài ra, các trại giam còn nhấn mạnh đến phương pháp giáo dục thiền định cho phạm nhân. Đây là hình thức giáo dục mang tính chất tịnh nhiều hơn. Trước nhất, phạm nhân phải trải qua kinh nghiệm đối diện với khổ đau do chính mình gây ra bằng sự tù đày. Ý thức về tội lỗi như sự mặc cảm khiến phạm nhân có nhu cầu ăn năn sám hối. Hằng ngày, phạm nhân được hướng dẫn phương pháp thiền tập, và phải thực tập ngồi thiền vào buổi sáng khi thức dậy và buổi tối trước khi đi ngủ. Phương pháp thực tập thiền ở đây khá đơn giản. Họ được hướng dẫn ngồi trong tư thế hoa sen bán phần hoặc trọn phần, còn được gọi là tư thế bán già hoặc kiết già. Tư thế hoa sen bán phần (bán già), nghĩa là bàn chân này nằm lên trên bàn chân khác. Tùy vào sự thuận chân của mỗi người để có thể lựa chọn đặt bàn chân nào lên trên, và điều này không có sự qui định bắt buộc. Tư thế hoa sen toàn phần (kiết già), nghĩa là hai chân bắt chéo vào nhau, lòng bàn chân trái nằm trên đùi phải và lòng bàn chân phải nằm trên đùi trái. Đây là tư thế giao thoa âm dương tạo năng lực giúp hành giả nhiếp tâm dễ dàng. Vì Thái Lan là quốc gia theo truyền thống Phật giáo Nam tông, nên các phạm nhân được hướng dẫn thực tập phương pháp thiền quán, với nhiều cách thức buông xả nỗi khổ niềm đau.

Thứ nhất, buông xả về tội lỗi, giúp họ quán tưởng về sự ăn năn, hối cải tội lỗi mình từng gây ra cho người và xã hội. Thứ hai, thực tập lòng từ bi. Lòng từ bi phải được trải rộng khắp mười phương, từ con người, loài vật đến môi trường thiên nhiên. Giúp phạm nhân có được chất liệu yêu sự sống, yêu con người, nhìn thấy nỗi đau của người khác cũng chính là nỗi đau của mình. Thứ ba, là quán tình thân. Phạm nhân được thực tập quán tất cả người nam từng là cha, ông, chú, bác, cậu, anh trai, em  trai,  con  trai,  cháu  trai  v.v…  của  mình  trong  một  kiếp  nào đó, và quán tất cả người nữ từng là bà, mẹ, cô, dì, thím, mợ, chị gái, em gái, con gái, cháu gái v.v… Thực tập như thế để thấy nỗi khổ đau dễ tác động và ảnh hưởng đến bản thân mình nhiều nhất. Vì vậy, họ không còn có động cơ muốn gây khổ đau cho những người thân của mình. Nếu quan niệm tất cả mọi người trong xã hội đều là người thân thì không ai muốn gây tội lỗi để họ bị khổ đau. Thứ tư, quán “sau cơn mưa trời lại sáng” là cách thức giúp phạm nhận thấy rằng, cuộc đời của họ không phải vứt bỏ, chỉ cần biết ăn năn, hối lỗi là có thể làm mới cuộc đời.

Dùng hình ảnh bầu trời sáng xua đi bóng đêm mịt mờ. Khi xoá mây mù thì vầng nhật nguyệt sẽ chiếu rạng. Sử dụng nhiều hình ảnh để kết nối sự hướng thượng, lúc đó hiệu ứng giáo dục thực sự mang lại kết quả cao. Hướng dẫn thiền quán là tạo cơ hội giúp phạm nhân có đời sống tốt trong cuộc đời. Tôi đã có hai năm kinh nghiệm thực hiện công việc này tại các trung tâm cai nghiện, trại tù v.v… Cứ mỗi lần đến, đoàn chúng tôi không chỉ đơn thuần làm công tác từ thiện bằng cách tặng quà, chương trình ca nhạc, mà tặng cho họ bài pháp thoại để làm mới đời sống. Luật pháp và sự trừng phạt không thể giúp phạm nhân hồi đầu, mà trái lại hận thù càng gia tăng, tình trạng đại bàng xuất hiện khắp trại tù. Chỉ có lòng từ bi, nhân quả của đạo lý nhà Phật mới có thể giúp họ chuyển hóa. Tôi nhận thấy những chương trình từ thiện như thế rất thành công trong thời gian vừa qua.

VUA TẦN-BÀ-SA-LA VÀ ÁN OAN TỬ TÙ

Ngày xưa thời của đức Phật, hoàng hậu Vi-đề-hi khi mang thai thái tử A-xà-thế đã được các nhà tiên tri tiên đoán rằng, đây là đứa con nghịch tử cần phải giết đi, thế nhưng vua Tần-bà-sa- la lại không nghe. Mặc dù ông rất thương A-xà-thế và muốn cho con được lên ngôi sớm hơn, A-xà-thế lại không tin thiện chí của vua cha sẽ nhường ngôi, nên đã ba lần bày mưu lập kế soái ngôi vua. Lần cuối cùng, âm mưu của A-xà-thế đã thành công. Ông giam nhốt vua cha trong ngục tù cho đến chết. Ở đây, tôi không phân tích về góc độ nhân quả nghiệp báo, mà chỉ chia sẻ về thái độ và tâm lý của người bị tù oan – vua Tần-bà-sa-la.

Đặt giả thuyết trong lúc bị giam trong ngục tù, vua Tần-bà- sa-la khởi lên nỗi oán hận, chẳng hạn như: “phải chi ta nghe lời nhà tiên tri cách đây mấy mươi năm thì hôm nay đâu phải chịu án oan tử tù từ đứa con ngỗ nghịch này”, “giá mà ta giết nó ngay khi phát hiện ý định muốn soái ngôi thì đâu phải chịu cảnh giam nhốt như thế”. Nếu những câu“phải chi”, “giá mà” của vua thể hiện sự hối hận thì hành động thiện và thái độ bảo vệ sự sống của nhà vua trước đây xem như mất hết. Sử sách đã ghi lại hoàn toàn trái ngược với giả thuyết, vua Tần-bà-sa-la rất hân hoan trong những ngày cuối đời. Dù A-xà-thế đã ra lệnh cấm tất cả mọi người không được phép vào thăm, ngay cả mẹ ruột của mình – hoàng hậu Vi-đề-hi. Ngoài ra, ông còn cả cấm việc mang lương thực vào trong tù cùng mọi phương diện tạo sự sống cho vua cha.

Những giờ phút cuối đời, vua Tần-bà-sa-la đã hướng về đức Phật, phát nguyện thọ trì Bát Quan Trai với tâm niệm từ bi hỷ xả, rộng lượng tha thứ, mong cho nghiệp oan khiên oán trái giữa ông và con trong quá khứ được tháo gỡ hết và kết thúc tại đây. Thông qua nghiệp tử tù này, con ông sẽ hồi đầu, chuyển ý, trở thành bậc minh quân cho thiên hạ. Ông không hề có nỗi niềm oán hận. Ông niệm Phật và nghĩ đến những việc lành từng gieo trồng trong quá khứ khiến ông hạnh phúc hơn. Đây là trạng thái tâm lý rất tốt và cần thiết đối với người bị tù oan, chết oan do tình ngay lý gian, oan khiên oán trái, trù dập v.v… cần tu tập để hoá giải tất cả.

Tóm lại, trong tình huống bị tử nạn, cần quan niệm rằng đó là nghiệp hoạnh tử, và không được phép chán nản hay thất vọng trước những hành vi, nghĩa cử cao thượng đó. Hãy tiếp tục hành động, đừng sợ cái chết thì cái chết sẽ từ chối chúng ta. Trong tình huống tử tù do phạm pháp hình sự, hoặc do oan khiên oán trái thì về phương diện cảm xúc, người tử tù phải ăn năn, hối hận và có nỗ lực hóa giải nghiệp tiền kiếp. Có như thế, đời sống hằng ngày trong tù được vơi bớt khổ đau, không còn tình trạng một ngày ở tù bằng nghìn thu ở ngoài. Nhiều người đã thực sự thay đổi bản thân khi trải nghiệm thời gian ở tù, nhất là được ngồi tù chung với các vị tu sĩ Phật giáo. So sánh hình ảnh giữa các nhà sư ngồi tù vì liên hệ đến chính thể, chính trị, hoặc bị oan khiên oán trái và những phạm nhân bình thường hoàn toàn trái ngược. Các nhà sư rất thản nhiên, sống hạnh phúc và không oán hận. Ngược lại, các phạm nhân thì bị khủng hoảng tinh thần, tâm thần và uất hận. Tất cả đều tùy thuộc vào lối suy nghĩ và hướng giải quyết vấn đề của mỗi chúng ta.

Thích Nhật Từ (Chùa Đức Quang, Sài Gòn, ngày 14-10-2006) Ghi chép: Nguyệt Vạn Hòa

http://www.daophatngaynay.com

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.