Vĩnh Biệt Cuộc Đời

CÁI CHẾT Ở LÀNG THIÊN LÔI

Câu chuyện thứ hai mà tôi muốn chia sẻ được đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 13 – 09 – 2006 về một ngôi làng được mệnh danh là “Làng trời đánh” hoặc còn gọi là “Làng thiên lôi”. Làng nay là một khu đất thuộc địa phận Hà Tĩnh, ở đó có một cánh đồng giao giữa ba xã Sơn Lộc – Thạch Ngọc – Việt Xuyên. Mỗi khi mưa to, sấm sét lớn thì dân làng ở đây không ai dám bước chân ra ngoài.  Thống kê xã hội học từ năm 1990 đến 2006, nơi đây có ít nhất hơn 20 người chết do bị sét đánh với thân thể bị cháy đen không còn nhận dạng ra. Trước sự kiện này, nhiều người sợ hãi và nghĩ rằng đó là hiện tượng trời trừng phạt đối với những người sống không có đạo đức. Lý giải đó tạo ra sự phân biệt đối xử với người chết và tệ hại hơn là ảnh hưởng đến người thân của họ, mà lẽ ra tình thương của con người phải được đặt lên trên hết.

Ngoài ra, thêm một quan niệm sai lầm khác xuất hiện khi người dân địa phương cho rằng, cái đầu của người chết do sét đánh rất linh thiêng. Ai lấy được cái đầu đó về nhà thì công ăn việc làm được thịnh vượng, cầu gì được đó, mua may bán đắt. Vì vậy mà nạn cướp xác diễn ra khiến nhiều người hoang mang, lo sợ, đã mất người thân bây giờ bị mất cả thi thể của người thân. Bên cạnh đó, người ta còn quan niệm sự linh ứng này vẫn tiếp tục tồn tại trong vòng 3 tháng 10 ngày, chỉ khi nào qua thời điểm đó thì sự linh ứng mới không còn. Vì vậy mà trong suốt thời gian đó, thân nhân của người chết phải thuê người canh gác, bảo vệ mồ mả.

Nghiên cứu về địa chất học cho thấy trời đánh là một hiện tượng vật lý. Vùng đất nào có nhiều quặng mỏ thiếc thì hiện tượng trời đánh tăng cao, giao cảm điện từ thiếc và điện trên bầu trời tạo ra luồng sấm sét. Lúc đó, người đang có mặt trong vùng điện tạo sấm sét có thể bị chết cháy đen. Khoa học chứng minh như thế, trong khi nhân gian lại hiểu sai lầm, gán điều này cho ông trời. Nếu thực sự ông trời làm việc đó thì xem ra ông đã quá bất lương và nhẫn tâm. Bởi vì đã có nhiều người hiền lương, hiếu thảo với cha mẹ, đàng hoàng, đứng đắn trong các mối quan hệ, giúp đỡ mọi người trong xã hội, chưa làm mất lòng ai nhưng vẫn bị trời đánh.

Do đó, đừng nên ỷ lại vào giá trị đạo đức mà ta đang có. Đức Phật vẫn khuyên chúng ta phải nỗ lực, phát huy, tu tập, và phấn đấu cho đến khi nào không còn gì để phát huy nữa thì lúc đó mới dừng, và cũng không cho phép mình được quyền thỏa mãn

đến đó. Hình ảnh của sự thỏa mãn cũng giống như nấc thang. Nếu ta dừng lại và đánh dấu sự thỏa mãn của người bộ hành đang đi trên từng nấc thang sẽ không có cơ hội để bước thêm một bước cao hơn trong đạo đức, tu tập, nghề nghiệp, thành công và nhiều lĩnh vực khác. Có kiến thức khoa học căn bản, người ta có thể tránh được cái chết, không cần vĩnh biệt cuộc đời để lại niềm thương tiếc cho người thân. Khi mưa to gió lớn, không nên ra những khu vực có quặng mỏ, chẳng phải vì sợ ma, sợ trời hay sợ thần linh trừng phạt, mà vì qui luật vật lý tự nhiên nếu ta muốn an toàn tính mạng. Trái lại, niềm tin mê tín chỉ làm cho con người ngày càng lún sâu vào những cảnh huống bất hạnh, đặc biệt với hiện tượng cướp xác vừa nêu càng làm cho ta đau lòng hơn, vì người đã chết mà vẫn chưa được yên.

Những trường hợp chết bất đắc kỳ tử như hiện tượng sét đánh, người chết chưa sẵn sàng chấp nhận cái chết, dòng cảm xúc của họ vẫn còn đang níu kéo sự sống, dù thân thể bị cháy đen. Trong tình huống này, chưa chắc họ đã được siêu sinh, huống hồ chi với hiện tượng bị cướp đầu thì dòng cảm xúc nổi sân bị trỗi dậy. Đó là ách tắc lớn cho tiến trình tái sinh ở đời sau.

KHÔNG CÓ ÂM PHỦ ĐỂ TRỞ VỀ

Đạo Phật xác quyết giữa sống và chết có khoảng thời gian và trung gian quyết định bản chất của loại hình sự sống. Vậy sự sống của đời sau là gì? Tiến trình trung gian đó tồn tại dài hay ngắn tùy thuộc vào bản chất nhân quả về đời sống đạo đức của người chết, và dòng cảm xúc trước và ngay trong giờ khắc cái chết diễn ra. Người Phật tử có được sự huấn luyện chuyển hóa cảm xúc hằng ngày, hằng giờ sẽ thấy cái chết là điều rất bình thường, không có gì đáng phải bận tâm. Khi ấy, dòng cảm xúc tiếc nuối về thân thể vật lý không có mặt, và tiến trình tái sinh được “thuận buồm xuôi gió”.

Ngược lại, những ai có thói quen tiếc nuối điều gì thuộc về quá khứ mà không chịu chuyển hóa ngay lúc đang còn sống thì khi chết, dòng cảm xúc tiếc nuối là một ách tắc lớn cho tiến trình tái sinh. Bởi cá tính của người còn sống thế nào, nó vẫn được lưu truyền dưới hình thức quán tính thế ấy. Năng lực quán tính sẽ định vị nghề nghiệp, cá tính, sở trường, dòng cảm xúc và thái độ ứng xử của người đó ở đời sau. Tính cách này hiếm khi thay đổi nếu không có sự hỗ trợ tích cực của giáo dục định hướng. Người Phật tử cần xác định rõ tiến trình của sự sống diễn ra như một dấu chấm trên một đường thẳng dài, mỗi dấu chấm tượng trưng cho sống và chết, và cứ thế tiếp tục mãi mà không ai có thể phanh ra manh mối đầu tiên của con đường thẳng dài, với điểm nào là khởi đầu và kết thúc nằm ở đâu. Với kiến thức nhân quả về sống và chết như thế sẽ giúp con người hoàn toàn thản nhiên trước qui luật“sanh ly tử biệt”.

  Lễ Trai tăng tại các chùa với lời tác bạch thường có câu: “chúng con hiểu rằng sanh tử là chuyện đi về…” vốn được dịch thoát nghĩa từ một câu của Nho giáo “sanh ký tử quy”, nghĩa là “sống gởi thác về”. Quan niệm sai lầm này cần phải được thay đổi. Nếu con người cứ nghĩ rằng sống tạm ở nhờ, gởi gấm thân phàm trên cõi đời trong mấy mươi năm tạm bợ thì khó mà sống có chất lượng về đạo đức, tâm linh, đóng góp và phục vụ cho xã hội. Sai lầm đó còn dẫn đến hậu quả ứng xử khi nghĩ rằng cõi dương chỉ tồn tại có mấy mươi năm, và cõi âm mới là cõi tồn tại vĩnh viễn. Từ quan niệm đó mà người Ai Cập đã cho xây dựng các kim tự tháp hoành tráng bằng mồ hôi, nước mắt và cái chết của người dân vô tội, ngay cả người thân thương nhất của vua cũng bị chôn sống theo, cùng với nhiều vàng ngọc châu báu. Bởi họ nghĩ rằng cảnh giới âm phủ mới có thể giúp họ tồn tại lâu dài, mà không có bất kỳ nỗi lo nào.

Người Trung Hoa khi ảnh hưởng nền văn hóa này đã có sự cải biên thay vì chôn người sống, nhà thật, vàng bạc thì họ làm bằng giấy vàng mả; nhưng trong tình huống này, ý niệm về sự chôn cất vẫn còn, sát sanh vẫn được thiết lập. Phong tục sai lầm đó vẫn làm cho nhiều người tin, nên khi chết đi họ cứ bám vào ảo giác nghĩ rằng mình đang cần áo quần để mặc, nhà cửa để ở, thực phẩm để ăn. Tiến trình thời gian trong việc kéo dài thân trung ấm tạo sự đói khát về cảm xúc, nhận thức và hưởng thụ của các giác quan, mà khi còn sống họ đã từng trải qua. Đức Phật khẳng định không có âm phủ nào để trở về, chỉ có những cảnh giới để tái sinh, gồm năm cảnh giới chính: ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la, con người, và chư Thiên.

Địa ngục không phải là cảnh giới và không được gọi là một loại hình sự sống. Đây chỉ là phương diện vật lý, nơi mà loài ngạ quỷ có thể tồn tại. Kéo dài sự tồn tại dưới hình thức hồn ma bóng vía của thân trung ấm sẽ làm cho người quá cố chất chồng thêm khổ đau. Khổ đau ấy không bị gián đoạn, không có niềm vui và cũng không có bất cứ phương tiện nào để thể hiện niềm vui, cho nên gọi đó là địa ngục giống như ngục tù giam nhốt mình. Đây là hình ảnh diễn tả bản chất nỗi đau đối với loài ma quỷ chết chưa được siêu.

Năm loại hình sự sống hoàn toàn tương thích với bản chất đạo đức, nhất là hành vi cuối cùng trong cuộc đời sẽ làm cho các hành giả Phật giáo sống có trách nhiệm với bản thân. Đây chính là sự khác biệt giữa người Phật tử và người không phải Phật tử. Các nền triết học và tôn giáo lớn trên thế giới quan niệm chết là hết, hoặc chỉ có hai cảnh giới không lên thiên đàng hưởng phước đời đời của Chúa thì xuống hỏa ngục để đời đời chịu khổ đau. Chủ nghĩa duy vật thì cho rằng không có đời sống ở kiếp sau. Quan niệm như vậy khiến cho trách nhiệm đạo đức bị lung lay, thay đổi, khi mà người tốt và kẻ xấu chẳng có sự khác biệt ở điểm kết thúc, vậy thì làm điều tốt để làm gì? Rất nhiều người làm điều xấu đã có những suy nghĩ sai lầm như thế. Hãy khoan đề cập đến vấn đề có đời sau hay không, chỉ cần ý thức về sự hiện hữu ở đời sau và niềm tin về nó sẽ giúp con người sống có ý nghĩa, biết sợ hãi điều xấu và hậu quả mà mình phải nhận lấy, giá trị đạo đức là ở đây.

ĐÔI TÌNH NHÂN VÀ NGHĨA CỬ CAO THƯỢNG

Ngày 15- 08- 2006, tại Trung Quốc đã xảy ra một sự kiện khá đau lòng. Một đôi tình nhân vừa hứa hôn đã qua đời trong lúc cứu một em bé trên con sông thuộc tỉnh Quảng Tây. Người nam tên là Triệu Thế Lương 27 tuổi, và người nữ tên là Diêu Mỹ Bình 22 tuổi. Cả hai vừa tốt nghiệp cử nhân và đang theo học chương trình cao học gần hoàn tất. Họ đã cùng thề non hẹn biển sau khi học xong sẽ cùng tổ chức lễ cưới.

Hôm ấy, cả hai đang đi dạo quanh bờ sông, bỗng nghe tiếng la thất thanh trước cảnh tượng một đứa bé đang bị dòng nước cuốn đi. Khi đó, chàng thanh niên vội nhảy xuống cứu, nhưng vì dòng nước chảy xiết quá, anh chỉ kịp đẩy đứa bé vào đến bờ thì bị kiệt sức, nước đã cuốn anh đi. Người vợ chưa cưới vì quá xót xa, đau lòng  nên cũng nhảy xuống cứu. Cả hai đã lặn hụp, chiến đấu với dòng nước, lả người và kiệt sức. Một lúc sau, khi người ta cứu được thì anh đã chết, và mãi đến hai ngày sau mới tìm thấy xác của cô gái.

Hai gia đình của đôi tình nhân này đều là những Phật tử thuần thành. Họ đã tổ chức lễ cưới cho đôi trẻ ngay trong ngày tang lễ. Người ta cho làm hai hình nộm mặc chiếc áo cưới mà đôi tình nhân đã sắm chuẩn bị cho ngày cưới. Gia đình hai họ cũng làm lễ một cách trịnh trọng bằng lời mở đầu tuyên bố lý do, lời chúc tụng, thậm chí có người đóng vai cô dâu chú rể giả đọc lời phát biểu trong nghi thức lễ cưới, và tiếp theo tiến hành đến nghi thức lễ tang. Có người cho rằng, chết rồi có nên làm như thế hay không?

Đứng từ góc nhìn của đạo Phật, sự tâm đầu ý hợp và nghĩa cử cao thượng trước cái chết của đôi tình nhân này sẽ làm cho họ

trở thành vợ chồng ở kiếp sau. Gia đình đã tổ chức lễ hôn phối mặc dù đôi tình nhân này không để lại lời di chúc nào, vì họ chết bất đắc kỳ tử. Cách thức làm như vậy là đúng, bởi vì niềm mơ ước được làm vợ chồng của nhau chưa thực hiện được, nên dòng cảm xúc tâm lý có thể gây trở ngại cho tiến trình tái sinh. Trong tình huống này, cha mẹ và họ hàng hai bên biết ứng dụng lời Phật dạy trong việc giải phóng ức chế tâm lý ở giây phút cuối cùng trước khi chết, giúp họ ra đi một cách nhẹ nhàng. Việc tổ chức lễ cưới trong trường hợp này mang ý nghĩa đạo đức và ý nghĩa tái sanh rất lớn, dù thiên hạ không hiểu đã lên tiếng phê bình, chỉ trích.

Nghĩa cử cao thượng trước lúc qua đời là hành trang đạo đức định hướng cho bản chất đời sống tái sinh ở kiếp sau, khi mà khoảng cách thời gian diễn ra trong tích tắc. Bằng nghĩa cử cao thượng hy sinh bản thân, không màng đến cái chết, với phước lực này sẽ giúp đôi tình nhân tái sinh rất nhanh chỉ trong tích tắc mà thôi. Thời lượng 49 ngày được nêu ra trong các bản kinh chỉ là sự phòng hờ cho những người tiếc nuối và không chấp nhận cái chết diễn ra như một sự thật.

Các chúng sanh sau khi qua đời trong một cảnh giới hay thân phận nào đó, do vì áp lực nhân quả và nghiệp lực lôi kéo nên họ phải ra đi. Kinh Na Tiên Tỳ Kheo đưa ra một ẩn dụ rất sâu sắc, trong lòng bàn tay ta đang nắm những hạt đậu, ngay thời khắc ta buông tay ra để cho những hạt đậu rơi xuống, lúc đó chắc chắn nó phải có chỗ rơi. Điểm rơi của nó có thể là cái bàn, mặt đất hay một khoảng không gian nào đó, tức là phải có một chỗ nào đó để rơi và bám vào.

Đối tượng của sự rơi được hiểu giống như cảnh giới sự sống ở đời sau, và vật rơi là thần thức tái sinh của con người vừa thoát ra sau cái chết. Sự rơi chỉ diễn ra trong khoảng thời gian rất ngắn. Chỉ những người bị tiếc nuối về cái chết, kéo dài tình trạng thân trung ấm và khổ đau khiến họ trở thành ngạ quỷ-hồn ma bóng vía bị đói khát.

Nghiệp trước cảnh huống sanh ly tử biệt, được gọi là cận tử nghiệp có giá trị lớn trong việc tạo phẩm chất cho người chuẩn bị tái sinh. Chắc chắn phẩm chất của đôi tình nhân khi tái sinh ở kiếp sau phải là người dấn thân phục vụ xã hội, cộng đồng, lấy hạnh phúc người khác làm tiêu chí để phục vụ bản thân, không màng đến bất cứ điều gì thậm chí là sự nguy hiểm, đe dọa đến tính mạng. Vấn đề được đặt ra là chết cùng một giờ khắc có thể tạo ra tình huống song sinh khi tái sinh. Lúc đó, thần thức của họ sẽ tìm một gia đình có nghiệp cảm tương đương trong thời điểm ban ngày, và làm thế nào có sự giao phối giữa cha mẹ trong thời điểm có thể thụ thai. Gia đình nào có cặp song sinh một nam, một nữ thì biết rằng đó là cặp song sinh do tự tử, hoặc làm nghĩa cử cao thượng vừa mới qua đời cùng một lúc. Vì vậy mà tiến trình tái sinh làm cho họ có mặt trong cùng một gia đình.

Các vị Hòa thượng đã răn dạy trong tình huống dù bé trai có sinh ra trước thì cha mẹ vẫn nên cho bé gái được trở thành chị của bé trai, để tránh tình huống loạn luân. Bởi vì sanh ly tử biệt gắn liền với tình yêu thường làm cho những đôi tình nhân muốn có mặt cùng một nơi. Thế nhưng nghiệt ngã thay về mặt luân thường đạo lý lại không cho phép anh chị em ruột thịt trở thành người hôn phối của nhau. Do đó, đặt người nữ làm chị để tránh tình trạng đáng tiếc xảy ra.

Hiểu được tâm lý như thế, những cặp tình nhân nhớ về sau đừng đi tái sinh cùng một chỗ. Hãy đợi đến khi tái sinh ra đời rồi, sau này hãy đi tìm nhau, cứ giữ lời nguyện ước thì chắc chắn sẽ gặp nhau. Trong kinh Tăng Chi Bộ, đức Phật còn hướng dẫn nghệ thuật để trở thành vợ chồng ở kiếp sau gồm ba yếu tố:

– Trong khoảng thời gian có mặt với nhau trên cuộc đời với tư cách là vợ chồng thì sự chung thủy là điều kiện tiên quyết.

– Cả hai luôn có nguyện vọng trở thành vợ chồng của nhau ở đời này và kiếp khác.

– Trong hai người dù ai có đi tái sinh trước thì người đó vẫn phải nêu tâm niệm rằng tôi sẽ chờ, và người còn lại tái sinh sau sẽ đi tìm kiếm.

Ba yếu tố đó sẽ làm cho đôi vợ chồng dù có chết trong bất kỳ tình huống nào vẫn tiếp tục làm vợ chồng của nhau ở đời sau.

Ngày xưa, công chúa Da-du-đà-la và thái tử Tất-đạt-đa đã từng là vợ chồng của nhau trong rất nhiều kiếp. Sự thành công của Tất-đạt-đa ở nhiều tiền kiếp về trước đều có bàn tay đóng góp và sự hy sinh của Da-du-đà-la. Họ đã rất ăn ý, hy sinh và tạo cho nhau sự thành công, hạnh phúc. Đến đời hiện tại này, Da-du-đà-la đã hy sinh trọn vẹn để chồng mình trở thành bậc siêu vĩ nhân, siêu tâm linh và đại giác ngộ – đức Phật Thích Ca ngày nay.

Do tiến trình của sự tái sinh thường dẫn đến tính cách gần gũi nhau. Điều này lý giải tại sao có người vừa mới sinh ra nhưng trong đầu đã có ý tưởng sẵn về mẫu người chồng, người vợ lý tưởng trong tương lai. Có tình huống người nữ mặc dù đối tượng hỏi cưới là người có gia tài, sự nghiệp, địa vị, giàu sang phú quý, hình thức bảnh trai mà họ lại không ưng. Do bởi trong đời quá khứ, người nữ đã từng thề non hẹn biển với một đối tượng khác, nên trong đời này họ đang đi tìm mà chưa gặp. Quá trình cách ấm làm cho họ bị quên, nhưng trong chiều sâu tâm thức vẫn còn giữ lại và tạo ra hệ đánh giá tiêu chuẩn, và hệ đó hoàn toàn khác với đối tượng muốn đến với mình. Sở dĩ có hiện tượng trên là do cá tính của người sống ở đời này và tiền thân của người đó trong quá khứ cùng một mẫu số chung.

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.