Con Người Tâm Linh

THỞ ĐỂ NHÌN THẤY CHÍNH MÌNH

Dưỡng khí là cái tối cần thiết cho cơ thể con người, nếu thở ra mà không thở vào coi như mạng sống chấm dứt. Không ăn uống con người có thể sống được vài tuần, nếu thiếu dưỡng khí chỉ trong 5 phút con người sẽ chết ngay. Dưỡng khí rất cần thiết cho nhu cầu cuộc sống con người nhưng chúng ta thường ít lưu ý đến và cũng không biết cách hít thở để có lượng dưỡng khí đầy đủ giúp cơ thể khoẻkhoắn, lành mạnh. Chính vì thế, trong đạo Phật nguyên thủy Phật dạy Pháp quán hơi thở là một trong những Pháp đầu tiênđể chúng ta tu. Đó là ý thức trở lại sự cần thiết của dưỡng khí đối với sức khỏe trong thân thể con người. Tập hít thở đúng đắn là hít thở dài và sâu, hít vô thở ra đều bằng mũi. Đây là lý do giải thích nguyên nhân của nhiều thứ bệnh bởi lượng dưỡng khí cần thiết cho não bộ, phổi và các cơ phận khác quá ít. Tình trạng thiếu dưỡng khí lâu ngày khiến cho các cơ phận suy yếu, hoạt động không bình thường và dễ lâm bệnh. Thiếu dưỡng khí là một trong những nguyên nhân gây ra nhiều tật bệnh, trong đó có bệnh nhức đầu và mệt mỏi. Bản thân chúng tôi là một bằng chứng thiết thực, khi mới vào Thiền Viện chúng tôi chỉ chú trọng tu tâm chớ không quan trọng tu thân, do đó bị rất nhiều bệnh. Trong vài năm gần đây tôi mới nhận ra sai lầm đó và áp dụng quán hơi thở trong đi-đứng-nằm-ngồi nên sức khoẻ ngày càng được tốt hơn.

Điềuđầu tiên chúng ta cần làm nếu ở nhà lầu là mỗi ngày nên lên xuống cầu thang nhiều lần để máu huyết lưu thông, nhịp tim đập mạnh và nhanh hơn bắt buộc chúng ta hít vào nhiều dưỡng khí và thải ra nhiều khí độc hại. Mỗi ngày ta nên đi bộbước nhanh hay lạy Phật-Bồ tát sám hối tối thiểu khoảng 30 phút hoặc hơn nữa càng tốt. Quan trọng hơn hết ta phải tập cách hít-thở bằng mũi chậm, dài và sâu, thực hiện nhẹ nhàng như nước chảy. Hít vô tới đâu ta biết tới đó và thở ra cũng như vậy. Đầu óc hoàn toàn trống rỗng, không toan tính, suy nghĩ gì cả.Càng tập lâu hơi thở càng dài, chúng ta càng hít vào nhiều dưỡng khí cho cơ thểthì càng thải ra nhiều khí độc hại. Chính nhịp thở chậm, dài và sâu; đầu óc trống rỗng, thanh thản sẽ làm các bộ phận trong cơ thể được mạnh khỏe vì nhậnđược dưỡng khí bồi bổ dồi dào và thải hết khí độc cặn bã ra ngoài. Để thở nhưtrên chúng ta có thể ngồi trên ghế hay nằm trên giường hoặc bất cứ đâu, miễn là trong tư thế hết sức tự nhiên, thả lỏng toàn thân thoải mái.

Tư thếngồi thở này là một trong các cách thức nghỉ ngơi và lấy lại sức lực rất công hiệu, có thể áp dụng tại khắp mọi nơi và trong mọi lúc. Chỉ cần vài phút là chúng ta có thể phục hồi sinh lực cho tâm trí và cơ thể. Toàn thân trong tư thếhoàn toàn thư giãn và đầu óc không nghĩ tưởng lăng xăng là hai yếu tố rất quan trọng. Chỉ cần chúng ta nhiếp tâm vào hơi thở, thở vô biết mình thở vô, thở ra biết mình thở ra. Ta cần chú ý phải thở chậm, dài và sâu trong tư thế hoàn toàn nghỉ ngơi và an ổn, nhẹ nhàng. Khi đã tập quen và thường xuyên hơi thở của ta sẽ dài và sâu, lượng dưỡng khí hít vào sẽ nhiều hơn và lượng khí độc được thải ra cũng nhiều hơn.

Tư thếnằm thở cũng y như vậy, đây là một dạng Thiền định hết sức đơn giản, dễ dàng mà tất cả mọi người đều có thể thực hiện. Điều quan trọng nhất là lắng tâm vào hơi thở để tạo sự thoải mái cho chính mình, ngay tức thì đầu óc sẽ hoàn toàn thanh thản, nhẹ nhàng. Phương pháp hành Thiền bằng cách hít thở chậm, dài và sâu này rất hữu hiệu trên toàn tâm trí và cơ thể con người vì cung cấp dồi dào dưỡng khí và đồng thời thải hết thán khí cùng căng thẳng ra ngoài. Nó giúp chúng ta phục hồi sức lực; thân khoẻ, tâm an và định tĩnh, sáng suốt; tái lập thế quân bình cho bộ máy hô hấp, tuần hoàn; trấn an tinh thần, giúp bình tĩnh và không lo lắng, sợ hãi; có thể chữa bệnh tim, nóng nảy, âu lo, huyết áp cao, khó thở,mất ngủ, nhức đầu, khó tiêu, mệt mỏi… Đặc biệt, nếu chúng ta thực hiện hít thởdài và sâu mỗi ngày đều đặn khoảng 15-60 phút mỗi sáng và mỗi tối thì dần dần thân khỏe, tâm anổn, nhẹ nhàng.

Hơi thở là nhịp cầu nối kết thân và tâm, là một quá trình sống tự nhiên của cơ thể hoạt động liên tục cho đến khi mạng sống chấm dứt. Dù chúng ta không quan tâm đến hơi thở nhưng hơi thở vẫn luôn hiện hữu. Cuộc sống thế gian với bộn bề công việc làm cho chúng ta ít để ý đến những việc bình thường và gần gũi nhất. Ta chỉ thường nhận biết hơi thở khi nó bị trục trặc, giống như khi chúng ta lên cơn suyễn hoặc lúc bị cơn đau tim đột ngột khiến cho mình khó thở.

Phương pháp quán niệm hơi thở giúp chúng ta dễ dàng nhiếp tâm mà đi vào Thiền định. Cách thức quán niệm hơi thở rất đơn giản, chúng ta không cần cố gắng làm cho hơi thởdài hơn hay điều khiển nó theo một phương thức nào. Ta chỉ đơn giản là ngồi yên theo dõi hơi thở ra vào một cách bình thường, thở vô ta biết mình thở vô, thởra ta biết mình thở ra. Quán sát hơi thở không cần trình độ chuyên môn, không cần học thức uyên bác, không cần sự thông minh mà chỉ cần nhận biết hơi thở ra vào của chính mình.

Khi quán sát hơi thở chúng ta thấy thiếu sự hấp dẫn hoặc lôi cuốn như khi nghe nhạc hay xem phim, do vậy ta có thể trở nên chán ngán mà không thích rồi bỏ cuộc nửa chừng. Nhịp điệu của hơi thở bình thường rất đơn giản và không có sức thu hút. Hơi thở rất yên tĩnh, nhẹ nhàng nên ít ai để ý tới. Với cách quán niệm hơi thở chúng ta không cần phải thích hay không thích, chỉ cần chú tâm để biết rõ từng hơi thở ra vào, khi thở vô biết mình thở vô, khi thở ra biết mình thở ra. Hơi thở nhẹ nhàng sẽ làm tâm ta yên lắng, đưa chúng ta về với sự tĩnh lặng và cảm nhận được niềm vui an ổn, nhẹ nhàng.

Khi mới bắt đầu quán hơi thở tâm thức của ta hay đi lang thang vào nhà người này, người nọ. Một khi chúng ta nhận biết mình đang dính mắc vào buồn thương, giận ghét làm mất tỉnh giác thì ta chỉ cần trở về nhìn lại hơi thở một cách nhẹ nhàng. Ta phải kiên trì, bền chí, kiên nhẫn và dứt khoát, luôn luôn quyết tâm chỉ biết mỗi hơi thở mà thôi. Mới đầu tâm thức của ta không quen bị kiềm chế nhưng dần hồi nó sẽ quen, chú tâm một chỗ thì việc gì cũng xong. Tâm ta xưa nay quen chạy rong như con trâu hoang hay ăn lúa mạ của người, nay ta chỉ cần xỏ mũi nó dẫnđi, tuy nó nổi giận ghì kéo lại nhưng cuối cùng cũng sẽ ngoan ngoãn theo ta.

Chúng ta quán sát hơi thở để tâm thức quay trở về với thực tại, cũng giống như người mẹdạy dỗ con mình. Một đứa trẻ hay chạy nhảy rong chơi nếu người mẹ nổi giận sẽ đánh nó, đứa trẻ sẽ sợ hãi và có thể trở nên lì lợm. Một người mẹ khéo léo sẽkhông như vậy mà luôn xem chừng đứa trẻ và để ý đến nó, nếu nó đi lang thang bà sẽ đưa nó trở về bên mình. Quan sát hơi thở tuy không có gì thú vị nhưng vì chúng ta thiếu kiên nhẫn, muốn làm cái gì cũng được nhanh lẹ nên dễ chán nản. Nhiều người rất sợ khi người khác biết các tật xấu của mình, nhất là những người có quyền chức. Những ai có thiện chí đóng góp và tu hành sẽ thường thấy lỗi của mình mà tìm cách chuyển hóa, điều phục chúng. Vì sĩ diện nên ta hay ém nhẹm các thói hư tật xấu và hay khoe khoang những cái tốt. Chúng ta cần phải mạnh mẽ trong việc chống lại các thói quen xấu như si mê, tham ái, sân giận và các thứ vọng tưởng khác.

Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thởtrong tâm. Chúng ta có thể kiềm chế không cho nó phát khởi khi ta cóđề mục Thiền quán làm chỗ nương trú trong tâm. Chỗ nương trú bên ngoài của tâm là thân, gồm các yếu tố vật chất. Quay về với thực tại chính mình cũng là chỗ nương trú bên trong của tâm, điều này giúp tâm không chạy lang thang theo suy nghĩ này, vọng tưởng nọ. Chúng ta đừng để tâm chạy theo những mối ưu tư của nó giống như những người bình thường chưa biết quán sát hơi thở là gì. Một khi ta đã có chỗ an trú để giữ con khỉ tâm thức thì nó ngày càng bớt ngang ngạnh và từ từ bớt rong rủi chạy tìm.

Bây giờ ta nói đến phương cách thực hành Thiền quán hơi thở. Các Kinh sách dạy rằng, thở vô mình biết thở vô, thở ra mình biết thở ra, thở vô dài và sâu, thở ra dài và nhẹ nhàng. Đó là những bước khởi đầu trong việc thực hành quán hơi thở. Khi thực tập một thời gian và bắtđầu có sức định tĩnh ta không còn chú tâm đến độ dài-sâu-ngắn của hơi thở nữa mà chuyển sang bước kế tiếp. Chúng ta sẽ tập trung ý thức để nhìn hơi thở ngay nơi lỗ mũi của mình và tiếp tục làm như thế cho đến khi tâm lắng dịu, trong sáng, nhẹ nhàng. Khi tâm đã yên lắng chúng ta sẽ tập trung vào sự tĩnh lặng của tâm, đơn giản là ta trụ nơi tâm thanh tịnh nhưng quán sát nó với mỗi hơi thở vào ra như các bước sau:

_ Tâm: Tập trung ý thức chú tâm vào hơi thở, theo dõi hơi thở vô ra hoặc trụ hơi thở tại mũi hay môi trên. Nếu cảm thấy khó chịu hay căng thẳng quá chúng ta có thể chuyển sự chú tâm vào vùng dưới rốn nơi huyệt đan điền. Sự chú tâm và theo dõi trong lúc ngồi Thiền phải đầy đủ ba yếu tố ý thức, chú tâm và tỉnh giác.

_ Hơi thở: Chúng ta cứ để hơi thở vô ra tự nhiên, không cố làm cho hơi thở dài thêm hay ngắn lại. Thở đều đặn, nhẹ nhàng một cách tự nhiên và chỉ cần theo dõi hơi thở vô ra là đối tượng duy nhất trong suốt thời gian hành Thiền. Thỉnh thoảng, nếu nghĩ đến chuyện khác chúng ta chỉ kiên trì, bền chí quay lại theo dõi hơi thở ra vô mà thôi. Khi bắtđầu Thiền quán sát hơi thở, việc đầu tiên chúng ta cần nhớ là phải ngồi giữ lưng cho thẳng và giữ mình trong tỉnh giác, thở vô ta biết mình đang thở vô, thở ra ta biết mình đang thở ra. Hãy giữ hơi thở êm ái, nhẹnhàng; đừng gồng tay chân hay bất cứ cơ khớp nào; giữ thân ở tư thếphù hợp với hơi thở.      

Chúng ta chỉ làm một việc duy nhất là chỉ đơn thuần theo dõi và nhận biết hơi thở rõ ràng, thở vô mình biết mình đang thở vô, thở ra mình biết mìnhđang thở ra. Hơi thở dài hay ngắn là tùy theo khả năng của mỗi người. Chúng ta phải biết rõ sự vận hành của từng hơi thở một cách cụ thể để giữ tâm tỉnh giác, không suy nghĩ lung tung bởi các tạp niệm buồn thương, giận ghét và cuối cùng đạt đến sự định đĩnh. Khi tâm trở nên yên tịnh, trong sáng và hơi thở trở nên nhẹ nhàng ta sẽ cảm giác toàn thân được tịnh lạc.

Hành giảduy trì trạng thái tỉnh giác về hơi thở một cách rõ ràng thì chỉ nhìn hơi thởmà không cần sự chú tâm, cảm giác thân tâm an ổn, nhẹ nhàng. Lúc này, hơi thởthường trở nên rất vi tế, khó nhận diện, có lúc nó dường như không hiện hữu, nhưng đấy chỉ là cảm giác an tịnh của hơi thở.

Có 5 chướng ngại lớn trong việc thực tập Thiền định là:

_ Dục: còn gọi là các loại tham muốn, luyến ái.

_ Sân: còn gọi là nóng giận, bực tức, khó chịu.

_ Hôn trầm: còn gọi là sự lừ đừ, buồn ngủ; tâm mê mờ, dã dượi.

_ Trạo hối: còn gọi là tâm dao động, bất an.

_ Nghi: sự nghi ngờ không biết pháp mìnhđang tu có thật sự an lạc không.

Chúng ta có thể ứng dụng các bước thực tập Thiền niệm hơi thở vào đời sống hàng ngày trong mọi lúc, mọi nơi như đi-đứng-nằm-ngồi. Ta nên nhớ quán niệm hơi thở là nền tảng của thực tại nhiệm mầu giúp mỗi hành giả cảm nhận bình yên, hạnh phúc, an ổn, nhẹ nhàng. Khi thực tập phép quán sát hơi thở, mỗi hành giả từng bước ý thức được mạng sống trong hơi thở mà biết cách buông xả phiền não tham-sân-si và dần hồi thành tựu được bốn lĩnh vực quán niệm về thân-thọ-tâm-pháp.

_ Khi hành giả thở vào biết mình thở vào hoặc thở ra biết mình thở ra. Hơi thở dài hay ngắn mà ta có ý thức về hơi thở đang vận hành trong thân sẽ cảm thấy toàn thân an tịnh, biết rõ và nhận diện từng tâm niệm thương-ghét. Đó là lĩnh vực quán niệm thứ nhất – quán thân trong tâm.

_ Khi mỗi hành giả thở vào hoặc thở ra mà cảm nhận được niềm vui trong an ổn, nhẹ nhàng, vui thích trong niềm vui đó thì mọi tâm tư chán ghét hay ưu phiền tự nhiên tan biến. Những cảm thọ được chứng nghiệm trong hơi thở có ý thức ấy thuộc lĩnh vực quán niệm thứ hai là cảm thọ.

_ Khi hành giả thở vào hoặc thở ra làm cho tâm ý an tịnh sẽ tạo ra sự phỉ lạc trong tâm cảm, nhận được tâm ý tự do, giải thoát, không bị giới hạn bởi một sự ràng buộc nào. Không quán niệm về hơi thở thì sẽ không phát triển được tuệ giác và sự hiểu biết chân chính. Đây là bước thứ ba – tập trung vào việc hơi thở ảnh hưởng đến toàn thân như thế nào bằng cách quán sát tất cả những cảm nhận về hơi thở ở các bộ phận của thân, đặc biệt là những cảm nhận liên quan đến hơi thở vô ra.

_ Khi hành giả thở vào hoặc thở ra mà quán chiếu về tính cách vô thường, hoặc tính cách không đáng tham cầu, vướng mắc của vạn pháp về bản chất không sinh diệt và về sự buông bỏ thì hành giả khi ấy thấy rõ bóng dáng của sáu trần cảnh chỉ là ảo giác không thật. Thân tâm sẽ tự nhất như rồi thể nhập tính biết sáng suốt, nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý mà thành tựu viên mãn pháp quán hơi thở.

THÂN VÀ TÂM CÁI NÀO QUAN TRỌNG

Thân và tâm, tức thể xác và tinh thần, cái nào quan trọng hơn? Đa sốchúng ta thường lo cho thể xác hay lo cho tinh thần? Chúng ta ai cũng lo cho thân làm sao được sạch đẹp, sung mãn, đầy đủ; còn phần tinh thần ít ai quan tâm tới. Nhưng thử hỏi, chúng ta lo cho thể xác được sung mãn, đầy đủ thì nó có bền bỉ, lâu dài được không? Rất tiếc, dù ta lo cho nó cách mấy thì thân này cũng phải già-bệnh-chết. Ta lo cho thân đầy đủ để rồi ngày mai nó sẽ mất. Vậy lo cho thân như thế là mình khôn hay dại? Ấy vậy mà ai cũng lo, lo giữ cái không thể bền bỉ, lâu dài mà vô tâm, không để ý đến phần chủ động để mặc tình nó ra sao thì ra. Chúng ta như vậy là sáng suốt hay si mê? Ta nào là lo nhà cửa, lo cơm ăn áo mặc, lo tiền bạc của cải làm sao cho có thật nhiều; nhưng khi nhắm mắt ta chỉmang theo nghiệp tốt hoặc xấu, tất cả những thứ đó ta đều phải bỏ lại hết, mà nghiệp tốt hay xấu là do tâm tạo tác mà ra. Khi muốn làm gì thì ý phải nghĩ trước rồi thân này mới hành động. Tinh thần là cái chỉ huy, sắp đặt mọi việc trong cuộc sống nên chúng ta phải làm sao lo cho nó được thánh thiện, tốt đẹp, cao quý mới phải. Thân này vốn dĩ tạm bợ,thân chỉ là phần phụ vì tâm đoan chánh, ngay thẳng mới quyết định nghiệp tốt hay nghiệp xấu.

Lâu nay chúng ta cho thân người là thật, tâm suy tư nghĩ tưởng cũng là thật. Do mê lầm, chấp chặt như vậy nên chúng ta cứ lo tìm cách gom góp tài sản, của cải cho mình và con cháu mai sau. Đầu tiên ta chấp cảnh, sau mình chấp thân và tâm là thường, là ngã. Vì chấp như thế nên Phật dạy thân người do bốn chất đất-nước-gió-lửa giả hợp mà có, song bốn chất này thường xung khắc nhau; đất ngăn ngại nước, nước xói mòn đất, nước làm tắt lửa, gió thổi thì đất rung rinh. Chúng xung khắc mà phải hợp lại nên thường sanh ra những hiện tượng bất hòa như đau yếu, bệnh hoạn. Khi chúng không dung hợp nhau được nữa thì tan rã, tứ đại phân ly; nên mới nói “có thân là có khổ”. Ai cũng có thể biết vậy nhưng làm việc gì cũng lo cho thân, ăn uống bồi bổ cũng vì thân.

Thân chúng ta những chất cứng như da, thịt, gân, xương, tóc, răng thuộc về đất. Những chất lỏng như máu, mủ, mồ hôi, nước mắt thuộc về nước. Những vật có tính động nhưhơi thở vô, hơi thở ra thuộc về gió. Nhiệt độ trong thân như hơi ấm thuộc về lửa. Khoa học hiện đại ngày nay phân tích thân người có hằng hà vô số tế bào, song cũng từ bốn chất đất-nước-gió-lửa hợp thành. Từ lâu chúng ta lầm tưởng thân này là thật tôi, là của tôi, rồi cứ chấp chặt vào đó. Nếu ai đụng chạm đến “cái tôi” này thì ta liền phản ứng chống trả lại hoặc tìm đủ mọi cách để bảo vệ, vun bồi cho nó được đầy đủ, thỏa mãn.

Nhưng với tuệgiác của Phật thì Ngài thấy rõ thân do đất-nước-gió-lửa hợp lại mà thành, nếu thiếu một trong bốn chất ấy thì thân này tan rã. Song, mỗi ngày chúng ta muốn duy trì thân để được tồn tại phải ăn cơm, uống nước, hít thở không khí. Cứ thế ta vay mượn đất-nước-gió-lửa bên ngoài để bồi bổ, thay thế cho đất-nước-gió-lửa bên trong. Suốt cả cuộc đời chúng ta sống bằng sự vay mượn liên tục, khi hết vay mượn thì mạng sống dừng. Hơi thở trả về với gió. Hơi ấm trả về với lửa. Máu, nước miếng, nước mắt trả về với nước. Da, thịt, gân xương trả về với đất. Tất cả đều rã tan, trở thành một cái xác thúi chẳng còn gì gọi là thân mạng nữa. Vậy mà ai cũng cố tâm lo cho chúng mà quên hẳn phần tinh thần.

Trong Kinh Bách Dụ có kể một câu chuyện như sau: Thuở xưa có một ngôi nhà cũ bỏ hoang, mọi người đồn có quỷ dữ trong ấy nên ai cũng kinh sợ,không dám ghé vào đó ngủ. Bấy giờ có một chàng trai tự cho mình đủ bản lĩnh bèn tuyên bố với mọi người: “Tôi không sợ gì cả, ma quỷ là cái quái gì, tối nay tôi sẽ vào đó ngủ.” Quả thật, tối đến anh ta vào nhà ngủ. Đồng thời lúc ấy cũng có một người tự cho mình can đảm hơn người nên cũng hiên ngang vào nhà đó ngủ.Người đến sau tới nơi xô cửa vào, người đến trước tưởng quỷ về xô cửa bèn rinh tấm phên ngăn ngang cửa không cho vào. Người phía ngoài tưởng có quỷ bên trong nên ráng sức xô cánh cửa bật ngã để vào chiến đấu với quỷ. Hai người gặp nhau trong đêm tối và đánh nhau dữ dội nhưng bất phân thắng bại. Trời vừa sáng ra hai người thấy nhau rõ ràng mới vỡ lẽ con quỷ mà mình đánh suốt đêm qua là người chớ không phải quỷ. Phật nói bài Kinh này để dụ sự lầm mê, chấp trước của con người là trời tối. Vì tối tăm mê mờ nên không thấy đúng lẽ thật, thân này giả có mà chúng ta lầm tưởng là thật nên làm cái gì cũng lo cho thân hết.

Trong Kinh A-hàm, Phật dạy người chấp thân tứ đại là ta còn dễ phá trừ hơn những người chấp linh hồn là thật ta. Họ nghĩ cái hồn sáng này vẫn trước sau như một, không biến đổi. Họ tin đời này mình giàu thì đời sau cũng giàu, mang thân người thì trở lại thân người; đời nay ra sao, thế nào thì khi chết đời sau như thế đó. Chấp trong thân này có linh hồn còn hoài là quan niệm thần ngã, thần ngã là chủ của thân này nên không bao giờ thay đổi. Những người mê chấp như vậy rất có hại vì họcho rằng thần ngã là cố định, họ không chịu tu tâm sửa tánh mà mặc tình ăn chơi, tạo các nghiệp xấu ác, đến khi phước hết họa đến phải chịu quả báo khổ đau không có ngày cùng.

Phật dạy tâm người là cội nguồn của thiện-ác, thân người là rừng tội lỗi hay là rừng côngđức. Khi tâm chúng ta khởi nghĩ một điều gì thì ta cho đó là chân lý, nếu có ai không chấp nhận và chống đối lại ta sẽ tức giận, mắng chửi, la hét um sùm… Từ đó, tất cả mọi mầm mống đấu tranh đều từ tâm mà ra, tâm bảo vệ, tâm chấp ngã và tâm si mê quyết ăn thua đủ. Như vậy, tâm rõ ràng là cội nguồn của tội ác. Tuy nhiên, đến khi tâm có ý thức thấy được mầm đấu tranh sẽ dẫn đến sự chống đối và tìm cách sát phạt nhau, thấy được sự tác hại của nó thì tâm sẽ quay lại chính mình. Thân này khi muốn ăn một bữa ngon miệng thì phải mua tôm, cua, gà vịt vềcắt cổ nhổ lông, chiên xào luộc nướng để bồi bổ thân này. Có người vì nuôi thân mà phải làm những nghề đồ tể như giết heo, bò, trâu, dê. Vì tham vọng cho bản ngã mà thân tạo vô số việc ác, nên nói thân là rừng tội lỗi.

Nhưng thân này gây tội lỗi là do đâu? Do tâm điều khiển, tức tâm là ông chủ chỉ huy. Người Phật tử thấy rõ tâm là chủ nhân ông của bao điều họa phúc thì mỗi khi tâm khởi nghĩ những điều bất thiện hại mình, hại người ta liền dừng ngay. Không phát ra lời nói hay hành động thì làm gì phát sinh tội lỗi. Chúng ta theo lời Phật dạy biết quán xét và thấy rõ tâm là người điều khiển nên thân mới hành động. Tâm hiểu đúng, phát ra lời nói chân chính sẽ dẫn đến hành động thiện ích. Thông thường, chúng ta thấy người nghèođói thì cho cơm gạo để họ được no lòng; thấy người lạnh rách ta cho áo chăn đểhọ được lành ấm; thấy người đau bệnh ta cho thuốc men để họ được khỏe mạnh; đó là cứu khổ, cứu người. Nhưng nếu tâm tham lam, ích kỷ, keo kiết thì làm sao mởlòng giúp đỡ cho người được?

Đức Phật trước kia ở trong hoàn cảnh cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh. Vật chất quá đầy đủ nhưng tại sao Ngài từ bỏtất cả để vượt thành xuất gia? Vì Ngài thấy rõ ngôi vua, quyền thế, của cải là những hạnh phúc tạm bợ. Có khi vì thế mà con người giết hại lẫn nhau nhưng cuối cùng ai cũng phải chết với hai bàn tay trắng. Con người vì mê lầm nên làm cái gì cũng để hưởng thụ, bồi bổ thân này mà không biết tu tâm dưỡng tánh. Thành rađại đa số con người thế gian chỉ lo cho phần vật chất mà lãng quên phần tinh thần. Phật có đầy đủ tất cả nhưng tại sao Ngài không hưởng, ngay khi đã thành tựu đạo pháp ngài cũng chỉ tuỳ duyên khất thực xin ăn để gieo phước điền cho nhân loại? Có được tinh thần sáng suốt, minh mẫn, định tĩnh nên Phật không thấy ai là kẻ thù, chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi. Cái thân vật chất này lúc nào cũng làm chúng ta lo lắng, tìm cách vun bồi, xây đắp, thỏa mãn nó; nhưng nó lại do tứ đại hòa hợp giả có nên rồi cũng phải chịu già-bệnh-chết. Phật dạy chúng ta phải luôn thấy rõ thân này giả hợp, thân chỉ là phương tiện còn tâm mới là cứu cánh để chuyển ba nghiệp thân-khẩu-ý cho thanh tịnh mà được giải thoát luân hồi-sinh tử. Thấy biết đúng như vậy là người giác, thấy ngược lại là người mê. Từ trước chúng ta mê lầm không nghe, không thấy, không biết nên làm cái gì cũng lo cho thân bất chấp có tội hay không có tội. Thân này tạo tác, làm việc là do ai điều khiển? Do tâm điều khiền chứ còn ai? Tâm biết phục thiện, tin sâu nhân quả thì chỉ huy, điều hành thân này làm nhiều việc thiện ích giúp người, cứu vật.

CON NGƯỜI THAM MUỐN DỤC VỌNG QUÁ LỪNG LẪY

Nhân quảrất công bằng, hễ vật chất thịnh hành thì dục vọng của con người càng được củng cố và tăng trưởng mạnh mẽ. Chính tham muốn dục vọng quá đáng đã tạo cho con người dính mắc vào “cái ta” ích kỷ này. Nào tài sản sự nghiệp, tiền bạc của cải, khi có đầy đủ rồi lại tìm cách được điạ vị danh vọng, tiếng tăm để tô bồi bản ngã của mình. Dĩ nhiên, khi có được hai điều kiện trên thì việc hưởng thụsắc đẹp, ăn sung mặc sướng và ngủ nghỉ thoải mái đã làm cho tất cả chúng sinh thân tâm phải bị bức bách, khổ sở.

Con người vì si mê lầm chấp, không thấy đúng lẽ thật nên luyến ái thân mạng; chấp thân tứ đại giả hợp cho là ta, là của ta, con ta, tài sản ta, gia đình ta, đất nước ta và ta là trung tâm của vũ trụ nên từ đó ông trời ra đời để ban phước giáng họa. Chúng ta vì thấy thân này là thật nên lúc nào cũng muốn nó được ăn ngon mặc đẹp, ra sức sắm sửa nhà cao cửa rộng, tài sản tiện nghi, vật chất đầy đủ, xe cộ, tiền của, tôi tớ phục dịch để chứng tỏ đẳng cấp giàu sang. Muốn có được đời sống vật chấtđầy đủ như thế chúng ta phải làm việc nhọc nhằn vất vả, phải tính toán công ăn việc làm để tích lũy tiền bạc, của cải vật chất cho nhiều. Sự tham muốn đó không phải chỉ riêng một ai mà tất cả chúng ta ai cũng muốn được lợi phần mình nên tranh đua, giành giật để được phần hơn. Không ai chịu thua ai mà lúc nào cũng muốn chiếm ưu thế về mình. Đã đi vào trường đời thì phải tranh đua, giành giật nên có kẻ được người mất, kẻ thắng người thua. Người được thì vui trên sự đau khổ của kẻ khác, còn người mất thì đau khổ vô cùng.

Lòng tham con người như giếng sâu không đáy không bao giờ biết chán, biết đủ, biết dừng. Người có quyền cao chức trọng thì lợi dụng chèn ép, bóc lột kẻ dưới. Người không được thì tìm cách trộm cướp, lường gạt của người khác. Kẻ bần cùng thì oán trời trách đất, oán ghét xã hội, bạn bè, người thân. Có nhiều gia đình cha mẹ vừa nằm xuống thì trong nhà anh em ruột thịt đã tranh nhau đòi chia gia tài, so bì với nhau từ lằn ranh bờ đất, chửi bới thưa kiện nhau ra tòa để giành của về mình. Anh em ruột thịt còn như thế thì huống chi là người dưng nước lã, làm sao có thể thương yêu giúp đỡ nhau bằng tình người trong cuộc sống. Người có tiền của còn tham như vậy thì nói gì đến người nghèo khổ, thiếu trước hụt sau. Trong cảnh túng quẫn có khi họ phải ăn trộm, cướp giật, lường gạt của người khác. Người Phật tử chân chính phải biết tạo dựng cho mình một đời sống trong sạch, miễn sao có miếng ăn thức uống vừa đủ mà trau dồi đạo đức tâm linh; biết nhường cơm xẻ áo, nhín ăn bớt mặc để giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh trên tinh thần của ít lòng nhiều.

Người thếgian trước tiên muốn thỏa mãn tiền bạc của cải rồi mới đến sự quyến rũ của sắcđẹp. Sắc đẹp cũng là vị ngọt mà cũng là vị đắng. Nó là một thứ men say tình ái khiến con người phải đam mê, thích thú, đắm say. Sự mến luyến khoái lạc cảm giác rồi mơn trớn, vuốt ve đã làm đa số anh hùng đều chết dưới lỗ chân trâu. Tai hại của lòng đam mê sắc dục làm biết bao người phải hao tài tốn của, tán gia bại sản. Hạnh phúc gia đình đổ vỡ cũng vì sự tham muốn quá đáng mà vợ chồng gây gỗ, đánh đập nhau vì ghen tuông, hờn mát. Tình chồng nghĩa vợ bấy lâu bịmất mát, đổ vỡ có thể làm con người ta đau khổ đến tột cùng. Lòng khát ái của con người không bao giờ biết đủ vì họ không bao giờ thấy thỏa mãn trong cuộc tìm kiếm, săn đuổi tình yêu; cũng giống như người khát nước mà uống nước muối nên càng uống lại càng khát. Họ cứ đi tìm những thụ hưởng cảm giác mới lạ có tính cách dị hợm, thậm chí có một số nước họ chơi trò đổi vợ qua lại để tạo thú vui thấp hèn, trụy lạc.

Vì thấy rõ tai hại của lòng đam mê sắc dục nên Phật chế giới “không tà dâm” để người Phật tử tại gia biết sống chung thủy một vợ một chồng, thương yêu nhau đến trọn đời, khôngđược ngoại tình với kẻ khác để bảo vệ hạnh phúc cho nhau. Khi có được đầy đủtiền bạc, của cải và sắc đẹp thì con người ta lại muốn củng cố quyền lực, danh vọng và địa vị. Danh vọng là một trong những nấc thang cuối cùng của đời ngườiđể thỏa mãn bản ngã được trở thành nhân vật quan trọng ăn trên ngồi trước, có kẻ hầu người hạ. Đó cũng là miếng mồi ngon béo bở mà người đời ai cũng thèm muốn được tận hưởng đầy đủ và vì sợ mất nên họ phải dùng tất cả thủ đoạn để bảo vệ nó. Cuối cùng thì đó cũng chỉ là mộng ảo phù hoa, cũng như những bong bóng nước khi rơi xuống chúng sẽ tự vỡ. Không ai có thể giữ mãi được danh vọng, địa vị hay quyền uy, thế lực. Người muốn ít biết đủ sẽ tùy duyên làm việc, không tranh đua danh lợi nên không sợ mất mát; không sợ ai tranh chấp, mưu hại nên cuộc sống lúc nào cũng được bình yên, hạnh phúc.

Ngay đến các thức ăn uống ngon miệng cũng chỉ có giá trị khi còn ở đầu lưỡi, chúng ta nuốt qua khỏi cổ rồi thì mọi thứ như nhau. Xét lại mới thấy việc ăn ngon chỉ có cảm giác nhất thời, vậy mà chúng ta phải hao tiền tốn của, vất vả cực khổ để có được món ngon vật lạ, sơn hào hải vị. Sự đam mê ngủ nghĩ cũng làm cho ta phải bận tâm không kém. Nhiều người suốt đời chỉ thích nhàn hạ, thảnh thơi, ăn không ngồi rồi, không muốn làm gì động đến chân tay. Họ sống chỉ biết thụ hưởng, vui chơi, bồi bổ tấm thân cho thỏa mãn, sung sướng nên cứ hết ăn rồi ngủ, hết ngủ rồi ăn, chẳng khác gì loài heo. Hạng người như thế chỉ biết lo cho thân này còn gia đình, người thân hay ngoài xã hội ai khổ đau mặc kệ.

Ngày xưa khi thế giới loài người mới hình thành, dòng họ nhà ma vì ghen ghét loài người nên cùng bàn bạc sẽ đem giấu đi thứ quý giá nhất của con người là hạnh phúc. Chúng tranh luận, bàn bạc với nhau nên đem giấu hạnh phúc của con người ở đâu. Trên núi cao, trong rừng thẳm, dưới biển sâu hay trong lòng đất? Cuối cùng, chúng thấy những nơi đó loài người có thể phát giác ra nên đã quyết định sau khi cân nhắc kỹ là đem hạnh phúc giấu ngay nơi thân con người. Cả lũ quỷ đều vui vẻ đắc thắng vì nghĩ đó là nơi con người khó có thể tìm ra mà có hạnh phúc thật sự.

Con người chúng ta thường cho rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp và có ý nghĩa hơn khi được ăn học đàng hoàng, lập gia đình rồi sinh con đẻ cái cùng sống hạnh phúc bên nhau. Đến khi thành lập gia thất và bắt đầu có con ta lại vỡ mộng vì con còn quá nhỏ nên tự an ủi mọi việc sẽ tốt đẹp hơn khi các con khôn lớn. Và đến lúc ấy ta lại thất vọng hơn nữa vì con đến tuổi đi học nên phải chăm sóc, lo lắng cho chúng vất vả hơn. Rồi ta lại tự an ủi mai này các con trưởng thành và có gia đình riêng thì chắc chắn ta sẽ được hạnh phúc. Cho đến khi ấy thì mình đã già và có khi chẳng còn sống được bao lâu để thụ hưởng hạnh phúc. Suốt một chặng đường từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường cho đến khi tốt nghiệp, cưới vợ lấy chồng, có con và nghỉ hưu; tất cả đều thoáng qua nhanh và từng giaiđoạn là từng nỗi lo toan vất vả, bộn bề. Hạnh phúc thiết thực, thật ra là ở ngay trong giờ phút hiện tại. Cuộc sống vốn dĩ luôn bị vây quanh bởi các thứ lo toan quay cuồng cứ nối tiếp nhau không một phút giây ngừng nghỉ. Hiện tại nếu chúng ta biết trân quý thời gian thì đó là thời điểm hạnh phúc nhất dù cuộc sống lúc nào cũng khó khăn và nhiều phiền muộn, khổ đau.

Vì muốn tìm kiếm hạnh phúc nên chúng ta cứ phải làm lại từ đầu. Cứ như thế công việc này giải quyết chưa xong thì những việc kia lại tiếp nối, đôi khi ngồi mà tiếc nuối chuyện đã qua và công việc khác lại bắt đầu. Rốt cuộc, chúng ta cứnằm trong vòng lẩn quẩn mà quên đi những giây phút sống ngay trong hiện tại,đây mới chính là điều ta đang tìm kiếm bấy lâu nay. Hạnh phúc chính là ta đang làm việc gì thì biết việc đó, ta phải sống với những gì trong hiện tại mà hiện tại chính là đây. Chúng ta hãy trân quý và tận hưởng những gì mình đang có ngay trong giờ phút hiện tại và đừng nên chờ đợi nữa. Ta đừng chờ cho tới khi tốt nghiệp ra trường, chờ khi có việc làm tương xứng, chờ được tăng lương, chờ có công việc mới, chờ một mẫu người lý tưởng để gá nghĩa vợ chồng, chờ đến ngày thứ bảy hay sáng chủ nhật để sum họp gia đình, chờ lãnh lương cuối tháng và chờ cho xuân-hạ-thu-đông bốn mùa thay đổi, chờ mãi chờ mãi cho đến ngày ta nhắm mắt lìa đời thì hạnh phúc thật sự có khi cũng chưa tìmđến. Chúng ta muốn được hạnh phúc nhưng ta phải hiểu hạnh phúc thật sự là gì? Hạnh phúc là sự biết cảm nhận giá trị sống trong mỗi hoàn cảnh ngay tại đây và bây giờ chứ hạnh phúc không phải là điểm đến mà ta đang mong đợi. Chúng ta hãy thường xuyên suy nghĩ về điều này, cuộc sống lúc nào cũng ngắn ngủi và thoáng qua nhanh, thở ra mà không thở vào thì ta còn gì nữa? Tại sao ta không biết trân quý những gì đang có ngay giờ phút hiện tại?

Và thật đúng như thế! Sức mạnh của loài người có thể chinh phục được vũ trụ nhưng lại không thể dễ dàng chiến thắng được thói hư tật xấu và vượt qua chính bản thân mình. Đúng là hạnh phúc nằm ngay trong bản thân con người nhưng con người lại không chịu thừa nhận, bởi hạnh phúc không có hình dáng, tướng mạo, không xúc chạm được nên khó thấy, khó biết. Cũng như sức mạnh tâm linh của mỗi người chính là nội tâm thanh tịnh, sáng suốt; nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Chúng ta hãy kiểm lại ba điều. Một là mạng sống trong hơi thở. Hai là thân này hư dối tạm bợ,không có gì quan trọng. Ba là tâm là ông chủ nhân của bao điều họa phúc. Ta thường nhớ và thấy như vậy thì sẽ dễ dàng tập trung vào việc tu học để chuyển hoá, gạn lọc tâm buồn thương, giận ghét thành tâm thanh tịnh, sáng suốt. Làm chủ được thân tâm rồi thì các thứ hình thức vật chất trong cuộc sống không thể hấp dẫn và lôi kéo ta được nữa.

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.