Lúc này, chúng tôi lại phải đối mặt với mấy vấn đề nan giải:
1. Cha rất hay nói, nếu để ông nói ra những nghi ngờ suy nghĩ trong lòng ông thì có tốt không? Hay nhắc nhở cha chuyên tâm niệm Phật là tốt?
2. Khi niệm Phật phải niệm lớn tiếng một chút có tốt không? Hay là niệm nhỏ tiếng thì hay hơn?
3. Khi cảm thấy cha rất đau đớn, nếu niệm Phật lớn tiếng hơn thì có làm cho cha đau đớn hơn không?
Khoảng 5 giờ chiều, tôi lại điện thoại đến Đài Bắc thỉnh giáo cư sĩ Liêu. Ông nói: “Cứ để phụ thân nói hết những suy nghĩ, nghi ngờ trong lòng mình ra, để tránh trong lòng ông còn những trở ngại, nhưng cũng không thể chỉ nói kể lể mà quên đi niệm Phật. Lúc niệm Phật, điểm quan trọng không phải ở âm thanh lớn hay nhỏ, mà là ở chỗ danh hiệu Phật phải niệm thật trang nghiêm. Nếu niệm lớn tiếng danh hiệu Phật thì rất chói tai, sẽ khiến người sắp ra đi khó chịu. Nếu niệm danh hiệu Phật trang nghiêm thì có thể giảm nhẹ nỗi đau của người sắp lâm chung”. Ông còn nói: “Quán tượng Phật cũng là một phương pháp rất hay. Người trợ niệm có thể quán tượng Phật, quán tưởng hào quang của Phật tỏa chiếu toàn thân của người sắp mất, có thể giảm nhẹ nỗi đau của họ, đồng thời cũng có thể khai thị cho những oan gia trái chủ của cha mình, hy vọng mọi người cùng giúp đỡ ông vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc. Như thế mọi người đều có công đức. Huống gì hôm nay thân phụ vãng sinh, hoàn toàn chẳng phải là đã đi rồi không còn lo nữa; phụ thân đến thế giới Tây phương Cực Lạc sẽ có năng lực đến giúp chúng ta. Vì vậy, hôm nay chúng ta thành tựu việc vãng sinh cho cha thật ra cũng là thành tựu vãng sinh cho chính mình. Hãy đem toàn bộ công đức vãng sinh của phụ thân hồi hướng cho oan gia trái chủ của ông”.
Ông nói: “Chí thành khẩn thiết trợ niệm cho cha là quan trọng nhất. Nếu có thể nên thắp hương hướng về Tây phương, đem tâm chí thành cung kính khẩn cầu Phật và Bồ-tát đại từ đại bi, Phật lực gia trì phụ thân chính niệm rõ ràng, tiếp dẫn người về thế giới Tây phương Cực Lạc. Cũng là một trợ duyên rất tốt”.
Vì vậy, tôi nói với cô út và hai em, có thể quán tượng Phật, niệm Phật, cầu hào quang soi chiếu cha để giảm bớt nỗi đau đớn của ông. Đồng thời, chúng tôi cũng bắt đầu thắp hương hướng về Tây phương cầu nguyện:
– Nam Mô A-di-đà Phật (10 câu), Nam Mô Quán Thế Âm Bồ-tát (10 câu), Nam Mô Đại Thế Chí Bồ-tát (10 câu), Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát (10 câu). Con Diệu Âm đệ tử của Phật A-di-đà, cầu xin Đức Phật và Bồ-tát gia hộ cho cư sĩ Lạc Toàn Thông, mỗi mỗi câu thánh hiệu A-di-đà, niệm niệm sinh Tây phương Tịnh Độ, phút lâm chung từ một niệm đến mười niệm mong Phật tiếp dẫn, vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc, làm Bồ-tát bất thoái chuyển, một đời bất thoái thành Phật.
Tôi cũng thỉnh bức thánh tượng Phật A-di-đà lớn trên tường phòng khách dời sang an trí trên tường bên giường của cha. Hơn 7 giờ tối, cha yêu cầu treo bức tượng Phật A-di-đà trên tường trước mắt ông. Ông muốn quán tượng Phật. Lúc này, cậu em trai vừa về đến, đột nhiên cha nắm chặt lấy tay tôi và em trai nói:
– Hai đứa con có trách nhiệm rất lớn.
Tôi không hiểu ý cha. Ngay tối hôm đó, cha niệm Phật rất tốt, có lúc cha tự mình xướng lên danh hiệu Phật, và còn có thể niệm liên tục trong một thời gian dài.
Buổi tối do cô út trực ca trợ niệm trước, đến khuya lúc gọi tôi dậy đổi ca, cô nói: “Tình trạng cha cháu rất tốt, có lúc có thể tự mình niệm danh hiệu Phật trong một thời gian dài, vãng sinh có lẽ không thành vấn đề”.
b) Trợ duyên hiện tiền.
( Ngày thứ năm, mùng 8 tháng giêng năm 1998).
Trưa ngày mùng 8 tháng giêng năm 1998, tôi và mẹ hỏi cha:
– Chúng ta đi tắm, tắm rửa sạch sẽ để theo Đức Phật A-di-đà về thế giới Tây phương Cực Lạc được không?
Cha đáp: “Được”.
Ngay từ hôm thứ hai, cha đã không ăn gì, sau khi trợ niệm cho cha, tôi nhiều lần hỏi cha có đói không? Cha đều nói không. Vì vậy chúng tôi chỉ dùng ống hơi mớm cho cha ít nước. Lần này, sau khi tắm rửa sạch sẽ, cha nằm trở lại giường tiếp tục niệm Phật. Lát sau, cha bảo tôi:
– Nghê à! Họ cần tiền, con đến ngân hàng lãnh tiền cho họ.
Mỗi khi cha không niệm Phật, nói những chuyện phiếm khác (hình như đang trò chuyện với ai khác), tôi liền nhắc nhở cha:
– Ba hãy chuyên tâm niệm Phật đi nhé.
Vì tôi liên tưởng đến hôm qua cha thường nói: “Họ đói lắm”. Tôi còn hỏi cha: “Có phải là ba đói không?”. Cha đáp quả quyết: “Không phải, cha không đói, họ đói đấy”.
Có người từng hỏi pháp sư Tịnh Không: “Siêu độ vong hồn đốt tiền giấy, họ có sử dụng không?”
Pháp sư đáp: “Nếu như những vong hồn được cầu siêu đang ở trong đường địa ngục, súc sinh thì đốt tiền giấy, họ đâu sử dụng được, chỉ có vong hồn ở trong đường ngạ quỷ, đốt tiền giấy cho, họ mới sử dụng được”.
Vì vậy, bây giờ cha tôi nói: “Bọn họ cần tiền”. Hơn nữa cha còn nói: “Họ rất đói”. Trực giác cho tôi biết những oan gia trái chủ của cha đang ở trong đường ngạ quỷ. Thế nên, chuyên tâm nhất ý mong mỏi trợ niệm cho cha đúng như lý, như pháp, cũng không biết đốt tiền giấy có đúng như pháp không? Trong lòng tuy rất muốn điện thoại hỏi cư sĩ Liêu, nhưng vì đã liên tục điện thoại hỏi nhiều lần, thật ngại ngùng lại quấy rầy ông nữa.
Tôi suy nghĩ rất lâu, liền bảo em gái đi mua rất nhiều giấy tiền, định phân ra đốt cho những oan hồn trái chủ của cha. Lần đầu, tôi đốt vào buổi trưa. Hơn 5 giờ chiều, tôi lại đốt lần thứ hai. Khi đốt buổi chiều, đứa con gái nhỏ cứ bám chặt lấy tôi (nó đã hơn 1 tuổi, bình thường có thể chơi một mình), tôi bảo bé đến phòng khách chơi, nhưng nó vừa nhìn vào cửa phòng khách thì khóc thét lên, không chịu vào. Đứa con trai nhỏ của em gái cũng khóc ngằn ngặt. Không bao lâu, mẹ tôi lại vô duyên cớ té sóng soài trong phòng khách, đau chịu không nổi, dường như đứng lên không được. Tôi vội chạy qua nhắc mẹ lớn tiếng niệm Phật. Tôi nói với mẹ: “Mẹ xem ba đau như thế mà còn có thể tự mình niệm danh hiệu Phật, chúng ta cũng phải học theo gương của ba. Vả lại, nếu bây giờ mẹ đau quá kêu rên, không niệm Phật thì sẽ làm thỏa mãn ý những oan gia trái chủ của ba, cắt đứt tiếng niệm Phật”.
Sau khi nghe xong, mẹ nén đau, lấy lại tinh thần, lớn tiếng niệm: A-di-đà Phật.
Lúc đó, tôi cảm thấy chúng tôi cần phải chuyên tâm hơn, niệm Phật chú tâm hơn nữa, vì cha tôi đang gặp một số chướng duyên. Ví dụ như: Muốn cầm tượng Phật ra ngoài, ông còn nói: “Không cần đâu! Không cần niệm Phật đâu!”. Ông lại muốn tốc chiếc mền vãng sinh đang đắp trên người ra.
Tôi nói với ông:
– Ba, tượng Phật không thể đem đi, chúng ta nên quán tưởng Phật, niệm Phật, chuyên tâm niệm Phật nhất định có hữu dụng.
Vì những hiện tượng này, lại thêm tiếng khóc ồn náo của hai đứa trẻ, khiến tôi cảm thấy phải chuyên tâm niệm Phật mới được. Mỗi lần thắp hương, tôi lại khẩn cầu Phật, Bồ-tát từ bi gia hộ cho cha chính niệm rõ ràng và đọc bài văn cầu nguyện một biến.
Mười một giờ đêm, ngày mùng 8 tháng giêng, luân phiên đến tôi trực ca. Đang lúc phải thắp hương, vì vậy hai tay tôi cầm hương, miệng niệm Phật đi ra ngoài sân, vừa bước ngang qua cửa phòng khách liền cảm thấy từ da đầu đến bắp vai toàn thân tê cứng. Con chó nhà hàng xóm cứ sủa mãi, tôi không do dự quỳ xuống đất, cung kính đọc một biến văn cầu nguyện, tiếp theo niệm thánh hiệu Phật A-di-đà rồi trở vào nhà. Mười hai giờ khuya, cậu em trai trở về. Tôi bảo em gái vào phòng trợ niệm trước, tôi đến phòng khách đem tình hình của cha ngày hôm nay, và cả những việc đã xảy ra trong nhà kể cho em trai nghe. Tôi nói: “Hôm nay chị ba về, nhất định trợ niệm cho cha đến cùng, nhưng nếu có sự giúp sức của em, tin rằng có thể giảm nhẹ sự đau khổ của cha”. Lát sau, tôi đi vào phòng cha, cậu em trai cũng bước vào theo cùng niệm Phật. Đột nhiên tôi cảm nhận ra hàm ý tối qua cha nắm chặt tay tôi và em trai nói: “Hai đứa con có trách nhiệm trọng đại”.
Khoảng 2 giờ 40 sáng, cha nói một câu: “Đến giờ rồi”. Con chó lại bắt đầu sủa. Tôi và em trai không dám lơ là, càng chuyên tâm niệm Phật trang nghiêm hơn. Cha cũng niệm theo chúng tôi. Khoảng 3 giờ rưỡi sáng, em trai nói với tôi:
– Chị ba, em phải đi nghỉ, sáng mai còn phải đi làm.
Tôi bảo: “ Ừ, em đi”.
Vì niệm Phật phải chuyên tâm, không thể có mảy may miễn cưỡng, nếu em trai đã mệt thì phải để nó đi nghỉ. Nó vừa ra khỏi cửa phòng cha thì con chó ngoài cửa lại sủa lên. Em trai vội trở vào niệm Phật cho cha. Niệm suốt đến khoảng 4 giờ 45 phút, tôi bảo nó:
– Có lẽ không sao rồi, bây giờ em đi nghỉ một chút, đợi lát nữa còn phải đi làm.
c) Phật A-di-đà từ bi tiếp dẫn.
( Thứ sáu, ngày mùng 9 tháng giêng năm 1998).
Sáng sớm, khi cô út đến tiếp ca niệm Phật, cha nói ông rất mệt, liền chìm vào giấc ngủ, nhưng chúng tôi vẫn ngồi một bên trợ niệm. Do tình hình đêm qua khá căng thẳng, tôi lại không biết đốt giấy tiền rốt cuộc có tốt hay không, vì vậy tôi vội điện thoại thỉnh giáo cư sĩ Liêu. Ông bảo tôi: “Bây giờ chính là lúc binh tướng đến. Nếu như lực niệm Phật lớn hơn lực của oan gia trái chủ thì có thể vãng sinh”. Ông lại nói: “Gần đây ở Đại lục có một cư sĩ tên Trương Hạnh Tài sắp vãng sinh, mọi người giúp ông trợ niệm, trợ niệm đến bốn ngày, bốn đêm mới vãng sinh. Hai ba ngày trước khi vãng sinh, oan gia trái chủ hiện ra trước mặt ngăn trở hai, ba lần. Lúc ấy, vị cư sĩ này bứt rứt không an, cầm chuỗi niệm ném đi, cũng không chịu niệm Phật. Sau đó, các bạn trong hội mới khai thị cho các oan gia trái chủ, và cầu xin Đức Phật A-di-đà từ bi gia hộ, sau cùng cư sĩ cũng vãng sinh đến thế giới Tây phương Cực Lạc”.
Tôi hỏi lại: “Có thể đốt giấy tiền không?”
Cư sĩ nói: “Tốt nhất không nên đốt giấy tiền, đốt giấy tiền không phải là cách làm của nhà Phật”.
Tôi rất xấu hổ, nói: “Nhưng đêm qua, tôi đã đốt rồi”.
Cư sĩ từ bi nói: “Đốt rồi thì thôi, nhưng không nên đốt nữa. Chúng ta phải hiểu, nghiệp nhân trong đường ngạ quỷ là tham. Vì tham mới đọa vào đường ngạ quỷ. Nếu lòng tham không chán, chúng ta có đốt bao nhiêu giấy tiền, cũng không thể giải quyết được vấn đề của cha cô, nhất là khi rơi vào đường ngạ quỷ, phải chịu sự đau khổ trong khoảng thời gian rất lâu, rất khó có cơ hội nghe được Phật pháp. Nếu muốn cho họ được lợi ích chân thật thì nên đem pháp môn niệm Phật giới thiệu cho họ, để họ cũng niệm Phật, mới có cách thoát khỏi đường ngạ quỷ. Chúng ta đem tâm vui vẻ an hoà, lời khả ái giảng cho thông suốt, bảo cho họ biết cơ duyên về thế giới Tây phương Cực Lạc rất thù thắng khó gặp. Hôm nay cha cô nhân duyên đã chín mùi, có thể vãng sinh về thế giới Tây phương. Chúng ta mọi người nên cùng nhau trợ niệm cho ông ấy. Mọi người đều có công đức, chúng ta cũng hãy đem toàn bộ công đức trợ niệm này hồi hướng cho oan gia trái chủ của ông”.
Sau khi trò chuyện điện thoại với cư sĩ Liêu xong. Tôi bảo cô em không cần đốt giấy tiền vàng bạc nữa, chúng ta phải thành kính, siêng năng niệm Phật hơn.
Do tình hình tối qua khiến cho mọi người căng thẳng, không biết oan gia trái chủ của cha đến bao nhiêu, cũng không biết còn đến nhiều ít, vì vậy chúng tôi phải sắp xếp ca luân phiên trợ niệm, tôi và cô út đều có thể duy trì thể lực, chúng tôi dự định trường kỳ trợ niệm. Tôi nói với cô út:
– Tuy chúng ta ít người nhưng không sao. Vì chúng ta có Phật A-di-đà. Nếu họ có thể tương ưng với Phật A-di-đà, thế thì càng tốt, chúng ta mọi người cùng đi đến thế giới Tây phương Cực Lạc.
Sau bữa cơm trưa, tôi trở về phòng nghỉ ngơi trước, vừa nằm xuống, tôi cảm thấy nơi đỉnh đầu có ánh vàng rực chiếu xuống, mở mắt ra thì không thấy gì cả, nhưng vừa nhắm mắt lại thì cảm thấy nơi đỉnh đầu có ánh sáng vàng đó rọi xuống, tôi không để ý đến, để duy trì thể lực cho trợ niệm, tôi cần phải nghỉ ngơi một lát.
Vì dự định trường kỳ trợ niệm, buổi chiều tôi và cô út vừa niệm Phật, vừa quét dọn qua căn phòng của cha một lượt, và trải tấm nệm da, phương tiện cho chúng tôi lễ Phật, niệm Phật, kinh hành v.v… Hơn 4 giờ chiều, đột nhiên tôi nghe có nhiều tiếng chim hót, nghe vui tai rất hay. Bình thường, tôi về nhà từ trước đến giờ, chưa hề nghe tiếng chim hót nhiều như vậy. Tôi hỏi con gái nhỏ của em gái:
– Giai Giai, bình thường có nhiều chim như vậy không?
Cô bé lắc đầu. Tôi chạy đến sân nhìn xem, thấy chim đậu trên hai cội cây trước cửa sổ phòng cha, khoảng mấy mươi con. Tiếng hót nghe rất sinh động vui tai, tôi vội mời mẹ đến xem, mẹ nói bình thường không có chim nhiều như thế, trước giờ bà cũng chưa hề thấy.
Vì việc trợ niệm khá quan trọng, cho nên tôi không dám đứng trong sân lâu. Bốn giờ rưỡi, tôi cầm hương, miệng niệm Phật, lại đến sân nguyện cầu chư Phật, Bồ-tát từ bi gia hộ cho cha chính niệm rõ ràng. Sau khi dâng hương xong, tôi trở vào phòng cha trợ niệm. Phụ thân vẫn ngủ rất say. Tôi lại lễ Phật một lần nữa cầu xin Phật và Bồ-tát gia hộ cho cha chính niệm rõ ràng (văn cầu nguyện y như trước). Sau khi lạy Phật xong, bỗng nhiên trong tâm khởi lên ý muốn nhìn thử cha (tôi luôn để ý tình trạng của cha). Lúc đó, tôi thấy miệng cha máy động ba cái, rồi không còn thở nữa. Khi ấy là 4 giờ 50 phút ngày thứ sáu, mùng 9 tháng giêng năm 1998.
d) Trợ niệm sau khi tắt thở.
1. Chí tâm niệm Phật.
(Tối ngày thứ sáu, mùng 9 tháng giêng năm 1998).
Phát hiện cha không còn thở nữa, ngay khi ấy tôi rất hồi hộp. Sau đó, tôi lập tức nghĩ đến lời cư sĩ Liêu nhắc nhở: “Trong quá trình trợ niệm, tuyệt đối không được hoảng loạn, tâm phải thanh tịnh mới có thể tương ưng với Phật”. Tôi nhè nhẹ chạm vào bàn tay cha, vẫn còn ấm, tôi không dám sờ vào nơi khác vì sợ thần thức cha trong quá trình rời thân thể, tạo thành sự đau đớn cho ông. Tôi vội đi đánh thức cô út vừa mới nghỉ ngơi, mời cô thay phiên trợ niệm trước, đồng thời lập tức điện thoại đến Đài Bắc thỉnh giáo cư sĩ Liêu. Cư sĩ hỏi tôi: “Cha cô, mạch còn đập không?” Tôi nói: “Không biết nữa, tôi không dám sờ vào mạch”.
Ông lại hỏi một số vấn đề, cuối cùng ông nói: “Suốt cả quá trình niệm Phật hộ niệm đúng như lý, như pháp, sự việc quả là rất viên mãn”.
Ông bảo tôi tiếp tục trợ niệm cho cha ít nhất là tám tiếng đồng hồ nữa.
Để bảo đảm cho chắc chắn, chúng tôi quyết định sau khi cha mất, trợ niệm thêm 24 giờ nữa cho tốt. Đồng thời mỗi lần dâng hương, ngoài việc cầu xin chư Phật, Bồ-tát tiếp dẫn cha vãng sinh thế giới Tây phương Cực Lạc, chúng tôi còn khai đạo cho cha:
– Ba, ba, ba (kêu to 3 lần), tuổi thọ của ba nơi thế giới này đã hết rồi, bây giờ con xin ba theo chúng con niệm Phật, thấy Đức Phật A-di-đà cầm đài hoa sen đến đón ba, ba phải vui vẻ đi theo Ngài đến thế giới Tây phương Cực Lạc, ba sẽ mãi mãi thoát khỏi khổ đau, mãi mãi được an vui.
Tôi lại đem tất cả công đức vãng sinh của cha lần này hồi hướng cho oan gia trái chủ của cha. Đến 12 giờ khuya, để giữ gìn sức khỏe chuyên tâm niệm Phật, tôi đi nghỉ trước. Tuy người đã nằm trên giường nhưng tôi vẫn nghĩ đến sự việc đáng chú ý sau khi tắt thở, có phải là đã giao nhận rõ ràng hay chưa? Một điểm quan trọng nhất trong đó là: Không được để một con côn trùng hay một con ruồi muỗi đến cắn chích vào thân thể người đã mất, để tránh cho người mất cảm thấy quá sức đau đớn mà tâm không cách nào vui vẻ niệm Phật, như thế sẽ làm lỡ mất cơ hội tốt vãng sinh. Điểm này tôi và em trai đã đề cập đến, cô út đã xem qua quyển sách “Làm cách nào niệm Phật vãng sinh bất thoái thành Phật” nên biết rõ. Nhưng tôi vẫn không sao ngủ được. Thế là, tôi ngồi dậy sang phòng cha dặn dò cô út, phải chú ý không được bất kỳ con kiến hay con muỗi chạm vào thân thể cha.
2. Điềm lành vãng sinh ứng hiện.
(Thứ sáu ngày mùng 10 tháng giêng năm 1998)
Trưa ngày mùng 10 tháng giêng, tôi và em gái bắt đầu liên hệ với đội nghi thức tẩn liệm. Chúng tôi mong mỏi theo nghi thức của Phật môn làm hậu sự cho cha, tôi nói cho đội mai táng biết, nhưng cần phải thuê trước một cỗ quan tài ướp lạnh thật đẹp, đem di thể của phụ thân an trí trong cỗ quan ướp lạnh, chúng tôi cả nhà đều không biết có tốt không? Tôi thỉnh giáo sư phụ ở thư viện Hoa Tạng. Sư phụ nói: “Phật pháp rất trọng thực chất, không trọng hình thức, làm hậu sự không cần phô trương, không nên chạy theo cái đẹp ở bên ngoài, để có thể khiến cho thân phụ được lợi ích chân thật là nguyên tắc, tất cả tùy duyên là tốt”. Hóa ra vì muốn mời đội mai táng mà phiền muộn, rối rắm. Tôi nghĩ: “Tâm của tôi như thế này thì không thanh tịnh rồi!”. Thế là, tôi an định tâm lại, quyết định tiếp nhận sự sắp xếp của đội mai táng và thiết lập linh đường ở trong sân nhà.
Do hậu sự phức tạp, tất cả việc trợ niệm phần lớn đều dồn hết cho cô út. Sau bữa cơm trưa, cô út tranh thủ thời gian rảnh nghỉ ngơi một chút. Cô vừa nằm xuống không lâu thì ngồi dậy kể cho tôi nghe một số cảnh tượng. Cảnh tượng tốt là thế giới Tây phương Cực Lạc. Cô út vì không ngủ được nên lại thức dậy niệm Phật. Lúc cô đi vào phòng của cha, em gái tôi nói với cô: “Chị Lưu may mà chị đến, em đi ngủ đây”.
Trong khi cô út đang niệm Phật, bỗng nhiên cô cảm nhận được nhiệm vụ lớn lao của mình. Thế là, cô mang ghế dựa ngồi trước giường của cha, mắt chăm chú nhìn ông. Không bao lâu, cô út thấy một con sâu nhỏ dường như muốn bay đến gần chót mũi của cha, cô vội giơ tay đuổi nó. Niệm Phật đến khoảng 2 giờ 25 phút chiều. Cô nhìn thấy một luồng khí trắng từ đỉnh đầu cha phóng ra, tiếp theo còn có luồng khí từ đầu xông lên. Sau đó khi đến niệm Phật cho cha, tôi cũng có nhìn thấy luồng khí trắng xông lên. Tôi nhẹ nhàng lấy lưng bàn tay mình đặt lên lưng bàn tay của cha thì cảm thấy lạnh thấu xương. Điều này và trong sách nói rất tương ứng.
Ngay trong quá trình trợ niệm sau khi tắt thở, tôi chỉ chạm vào thân cha ba lần. Một lần là khi cha vừa tắt thở, tôi đã nhẹ đặt vào lòng bàn tay của cha; phát hiện tay vẫn còn ấm; lần thứ hai là sau khi thỉnh giáo cư sĩ Liêu, bắt mạch cho cha, lần thứ ba là sau khi cha tắt thở trợ niệm đủ 24 tiếng, tôi lấy lưng bàn tay chạm vào lưng bàn tay cha. Tuy trong sách nói có thể nhẹ nhàng sờ nhẹ lên đỉnh đầu để phán đoán xem người chết đã vãng sinh Tây phương Tịnh Độ chưa? Nhưng chúng tôi không làm như thế, vì rất sợ làm tán loạn sẽ gây nên phiền não cho cha mà còn làm lỡ mất cơ hội tốt vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc. Sau việc đó, tính ra chúng tôi bắt đầu niệm Phật từ 11 giờ tối ngày mùng 6 tháng giêng cho đến 5 giờ chiều ngày 10 tháng giêng, tổng cộng đã trợ niệm cho cha 90 giờ.
Khoảng 6 giờ 30 phút chiều ngày hôm ấy, ông chủ của đội mai táng điện thoại hỏi y phục của cha tôi đã thay xong chưa? Tôi trả lời: “Chưa, chúng tôi đợi các anh đến thay!” Sau khi gác máy điện thoại, bỗng nhiên tôi phát hiện ra là con cái nên thay y phục cho cha mới đúng. Thế là, tôi và em gái cùng thay cho cha bộ y phục cư sĩ đã chuẩn bị xong từ trước. Áo tràng và vớ mới, giày mới… Quá trình thay y phục khá thuận lợi. Thân thể cha rất mềm mại, dễ di chuyển; rất nhanh chóng. Sau khi chúng tôi đã giúp cha hoàn thành việc thay áo, thay mũ, tôi chỉ lên trán và nói với em gái: “Dung, em xem trên đầu chị toàn là mồ hôi”. Tôi nhìn thấy em gái cũng mồ hôi đầy mặt. Em còn bảo tôi: “Áo sau lưng chị đều ướt hết rồi”.
Lúc đó chúng tôi đều cảm thấy rất lạ, vì đang là mùa đông, do luôn niệm Phật, không thấy lạnh nên mỗi người chỉ mặc cái áo mỏng tay dài, nhưng cũng không đến nỗi đổ mồ hôi. Sau đó lúc chúng tôi đang niệm Phật, đột nhiên cảm nhận ra đó là do có sự liên quan đến hào quang Phật tỏa xuống.
Từ sau khi cha ngừng thở, trong 24 giờ chúng tôi tiếp tục trợ niệm, hai gò má của cha từ đen hóp dần chuyển sang màu da bình thường, còn trên mô bàn tay những gân máu lồi lõm màu xám xịt cũng chuyển sang màu tươi hồng. Những điều này là việc tôi chưa từng thấy. Khi ông trưởng đội mai táng sắp đem di thể của cha từ phòng trong dời sang nhà khách, vì di thể rất mềm mại, cần phải ba người giúp sức, một người ở đầu, người ở chân và người ở chính giữa đỡ phụ mới đem đi được, vậy mà vẫn còn hơi trơn.
3. Một bầu không khí trong lành.
(Chủ nhật ngày 11 tháng giêng năm 1998).
Ngày 11 tháng giêng, từ kiếng lưu ly trong suốt của quan tài, chúng tôi có thể nhìn thấy quầng đen ở mắt cha hoàn toàn đã mất đi. Đến ngày thứ hai, nét mặt cha bắt đầu xuất hiện màu hồng tươi sáng, mẹ nhìn thấy bà khen là việc hiếm có, vì hiện tượng này và những cảnh tượng lâm chung trước đây bà đã thấy không giống nhau. Buổi trưa ngày 12 tháng giêng, sau khi hậu sự của cha sắp xếp ổn thỏa, tôi cùng cô út và đứa con gái nhỏ trở về Đài Bắc.
Ngày 13 tháng giêng, chồng của chị hai, mẹ chồng chị và sư phụ thân cận của họ cùng mấy người đến nhà tụng kinh niệm Phật cho cha. Mẹ tường thuật quá trình niệm Phật vãng sinh cho cha, sư phụ rất tán thán. Và bày tỏ ý không khí trong nhà rất an tịnh trong lành, không có cảm giác âm u.
Chủ nhật ngày 18 tháng giêng, cử hành lễ tống táng. Buổi chiều cách một ngày, tôi và đứa em trai thứ hai đến kiểm xương nơi hỏa táng. Vì chúng tôi không thấy xá lợi, mới thỉnh sư phụ kiểm xương. Từ trong mớ tro xương của cha, ông đã nhặt được xá lợi rải rác các nơi trên toàn thân, chúng tôi chỉ nhặt được một số trao cho mẹ làm kỷ niệm. Một mặt để cho mẹ an lòng, mặt khác tăng thêm lòng tin niệm Phật cầu sinh thế giới Tây phương Cực Lạc của bà. Những viên xá lợi nhặt được mang về tỏa màu xanh lam sáng dìu dịu. Đến trung tuần tháng 2, từ Đài Bắc tôi đã thỉnh được một tháp đựng xá lợi mang về thôn Trung Hưng Tân, khi chuẩn bị an trí xá lợi của cha, tôi phát hiện xá lợi đã chuyển sang màu quít đỏ.
e) Sự tích cảm ứng trước và sau khi trợ niệm.
1. Trước khi trợ niệm.
Cuối năm 1997, mẹ điện thoại báo tin: Cha nói ông ta sắp đi rồi, buổi tối thường không chịu tắt đèn ngủ.v.v…Tôi liền bắt đầu tụng kinh Vô Lượng Thọ và đem những công đức đó hồi hướng cho những oan gia trái chủ của cha.
Vào buổi sáng nọ, đứa con gái lớn ( học lớp 5 tiểu học) nói với tôi:
– Mẹ, tối qua con mộng thấy Đức Phật A-di-đà đến đón ông ngoại.
Tôi hỏi:
– Cảnh con mộng thấy là ở đâu?
Nó đáp:
– Ở nhà bà ngoại.
Tôi lại hỏi:
– Đức Phật A-di-đà mà con thấy hình dáng như thế nào?
Con bé đáp:
– Toàn thân màu vàng chói lọi.
Tôi hỏi tiếp:
– Lúc đó, còn có người nào ở trong nhà không?
Nó đáp:
– Mẹ và dì quỳ trước giường ông ngoại niệm Phật cho ông. Phật A-di-đà sắp đến đón ông ngoại. Mẹ muốn giúp ông mang giày. Ông nói không cần đâu.
Đây là lúc cha đang bệnh nặng, chúng tôi vẫn không có về trước trợ niệm, con gái lớn mộng thấy cảnh tượng cha được Đức Phật A-di-đà dẫn đi.
2. Trong khi trợ niệm.
Mẹ bảo tôi: “Trước khi các con vẫn chưa trở về niệm Phật, toàn thân cha không biết đau bệnh gì, chỉ cần chạm nhẹ là đau chịu không thấu, lúc thay áo quần, thay tã lót càng đau thấu tim. Nhưng từ sau khi các con trở về không ngừng niệm Phật thì cơn đau của cha đã giảm nhẹ rất nhiều, nửa thân trên có thể tự do hoạt động, lúc thay tã lót cũng không kêu đau; thậm chí đến sáng ngày vãng sinh mùng 9 tháng giêng, nửa thân dưới của cha cũng có thể hoạt động, còn có thể tự trở mình. Giấc ngủ sau cùng của cha là cánh tay phải đặt gần gương mặt phía bên phải, mặt ngủ nghiêng về bên phải ( Sư phụ nói ngủ kiểu này là dáng nằm cát tường).
Mẹ cũng bảo tôi, trước lúc chúng tôi chưa trở về niệm Phật, phụ thân luôn kêu lạnh lắm, đắp rất nhiều mền vẫn cảm thấy lạnh. Nhưng sau khi chúng tôi không ngừng niệm Phật, cha đã không cảm thấy lạnh, có lúc còn bảo với chúng tôi là ông nóng quá, lòng bàn tay của ông nóng như hòn than. Ban đầu, tôi vẫn rất lo có phải là cha phát sốt không, nhưng sờ lên trán ông lại không có dấu hiệu phát sốt. Vì vậy, có lẽ là trong tiếng danh hiệu Phật, thân thể cha đã chuyển thành ấm áp.
Ngoài việc này ra, trở về niệm Phật cho cha là việc quan trọng đầu tiên, cho nên mấy ngày đó, tôi đều không liên lạc với người nhà ở Đài Bắc. Mãi đến tối mùng 9 tháng giêng, trong điện thoại con gái lớn nói với tôi: “Mẹ, tối qua con mộng thấy ông ngoại bị quỷ bắt, sau đó con và mẹ luôn niệm Phật A-di-đà, niệm tới khi mấy con quỷ đó vừa bắt đầu nắm lỗ tai. Sau đó, nó dần dần biến mất không thấy nữa”.
Điều này thật là khớp với nhau không thể nghĩ bàn, đích xác tối hôm mùng 8 tháng giêng là căng thẳng nhất, nhưng tôi hoàn toàn không điện thoại báo với người nhà ở Đài Bắc, làm sao con gái lớn biết mà mộng thấy cảnh như thế. Hơn nữa ở trong mộng nó còn giúp sức niệm Phật.
Cô em gái cũng nói với tôi, nửa đêm mùng 7 tháng giêng, cô không ngủ được, đang ngồi trong phòng khách, đứa em trai đang trực ca niệm Phật cho cha, tôi và cô út nghỉ ở phòng ngoài nhưng cô em gái vẫn nghe tiếng những người con gái trợ niệm từ phòng cha vọng ra. Lúc ấy, cô em ý thức rất rõ ràng, cô cũng phân biệt được đó không phải là tiếng của tôi. Đồng thời nơi phía sân ngoài phòng khách cũng có tiếng rất nhiều người cùng niệm Phật. Sáng ra, khi chúng tôi đến đổi ca, phát hiện em trai đang nằm nghỉ trên ghế. Sau khi sự việc xong, tôi hỏi em trai: “Em có nghe tiếng các người nữ niệm Phật không?”.
Em trai nói: “Không”. Tôi đoán có thể là em trai đã ngủ say rồi. Vì muốn khiến cho không gián đoạn việc niệm Phật của cha nên chư Phật, Bồ-tát từ bi gia hộ, có sự hộ niệm trợ duyên khác.