Hành Trình Đến Hạnh Phúc

Bốn Chân Lý Cao Quý bao hàm một sự giải thích về hạnh phúc và khổ đau và nguyên nhân của chúng.  Mục tiêu của đời sống là hạnh phúc.  Từ lúc sinh ra chúng ta có quyền để có hạnh phúc, và hạnh phúc trường cửu phải phát triển trong chúng ta; không ai có thể ban nó cho chúng ta và không nhân tố ngoại tại nào có thể chịu trách nhiệm cho nó.   Nó phải được đạt đến qua sự phát triển nội tại của chính chúng ta.  Chúng ta hòa hiệp Bốn Chân Lý Cao Quý vào đời sống hàng ngày của chúng ta như thế nào?  Thứ nhất, thật quan trọngđể biết tâm là gì.  Đôi khi người ta có ấn tượng rằng tâm là một thực thể hoàn toàn độc lập, tách rời khỏi thân thể.   Một tâm như vậy không tồn tại. Chúng ta không thể tìm ra một cái “tôi” bên ngoài thân thể.  Người Phật tử không chấp nhận một cái “tôi” độc lập, một linh hồn hay một tự ngã thường còn.  Tuy nhiên, vì tâm tùy thuộc vào thân thể này, nên chúng ta hoàn toàn đúng khi liên hệ nó như tâm con người.  Nếu tâm là độc lập và không liên hệ gì với thân thể, sẽ không có phân biệt giữa tâm con người và con thú.

Ngay khi não bộ con người dừng hoạt động, tâm con người ngừng tồn tại.  Nếu là như vậy, thế thì lý thuyết về tái sinh?  Tâm phát triển trên căn bản của những nguyên nhân và điều kiện cả lập tức và khoảng cách, trực tiếp và gián tiếp.

Thí dụ, tâm nhận thức một bông hoa tùy thuộc trên nhiều điều kiện.  Một là con mắt.  Không có cơ quan này, mặc dù chúng ta có thểcó ý thức về bông  hoa, hay bông hoa ởtrước chúng ta, chúng ta sẽ không thể nhận thức bông hoa.  Trái lại, tâm và mắt không thôi không có bông hoa thì không thể phát triển một sự tỉnh thức về bông hoa.  Và nếu có một bông hoa, và một con mắt toàn hảo những không có não bộ, một  lần nữa, chúng ta không thể ý thức về bông hoa.

Thức hay tâm chỉ như một năng lượng vi tế mà trên ấy mọi thứ có thể được phản chiếu.  Bản chất tự nhiên của nó đơn thuần là chói lọi, rực rở.  Tạng ngữ “shepa” có nghĩa là “ý thức về điều gì đấy”.  Nên bên cạnh não bộ con người, có những điều kiện, những nguyên nhân sâu sắc hơn và vi tế  hơn của thức của con người, không có nó tâm con người không thể phát triển.  Chúng tôi gọi đó là ánh sáng trong suốt, linh quang, tịnh quang, tâm tận cùng sâu sắc vi tế nhất (cũng tức là Phật tánh).

Một sự biểu hiện của điều này là tại một thời điểm trong khi chúng ta sử dụng những giác quan của chúng ta một cách hoàn toàn, trình độ của nó thật là thô thiển.  Nhưng khi chúng ta ngủ mơ, những giác quan nào đó không hoạt động hay những chức năng của chúng bị giảm thiểu, và thể trạng tinh thần là sâu hơn.  Và trong tình trạng ngủ sâu không mơ mộng, tâm chúng ta đạt đến trình độ sâu nhất của nó.

Một biểu hiện khác là khi các bác sĩ tuyên bố một người nào đó đã chết và chúng ta thấy rằng thân xác tiếp tục tồn tại mà không bị phân hủy trong một vài ngày, và trong một vài trường hợp, một vài tuần.  Bởi vì tâm vi tế tận cùng vẫn còn hiện diện trong thân xác, nó tiếp tục biểu hiện chức năng.  Do thế, trong một ý nghĩa sâu hơn, con người ấy chưa ra khỏi thân xác.  Chủ nhân của thân thể, một năng lực kiểm soát, vẫn hiện diện, đấy là tại sao thân xác không phân hủy.  Nhưng một cách y học hay quy ước, thân xác ấyđược xem như đã chết.

Theo như tôi biết, đã từng có tối thiểu mười hay mười lăm sự việc xảy ra ở Ấn Độtrong ba mươi năm qua.  Trong trường hợp giáo thọ của tôi, sau khi ngài được tuyên bố là đã chết lâm sàng, ngài đã tiếp tục trong thể trạng của linh quang trong khoảng mười ba ngày.  Do bởi điều này, chúng tôi tin rằng có thể có một ký ức sâu về những đời sống quá khứ. Dưới những điều kiện nào đó, chúng ta có thể phản chiếu trên những kinh nghiệm quá khứ trên căn bản của linh quang.  Một số hành giả thâm nhập rất sâu khi họ nhập định, và thức thô hay trình độ thô của tâm trở nên không hoạt động.  Sau đó họ có những ký ức về những đời sống quá khứ của một trăm năm trước, hay trong vài trường hợp là của vài trăm năm trước thế nào đấy được phản chiếu trong tâm thức của họ.

Sựgiải thích của chúng tôi là tâm vi tế sâu thẩm nhất luôn luôn hiện diện.  Mặc dù, thay đổi từng phút giây, nhưng sựtương tục của  nó là thường trực.  Nên có hai trình độ của tâm; trình độ thô của tâm lệ thuộc hoàn toàn trên thân thể này nhưng tâm vi tế nhất là bất diệt.  Trên căn bản này sự tái sinh xảy ra.

Căn bản tự nhiên của tâm là trung tính tối hậu.  Nó không thể bị ảnh hưởng bởi những cảm xúc tiêu cực lẫn tích cực.  Hãy lấy, thí dụ, những ai với sự bình tĩnh kém.  Khi tôi còn trẻ, sự bình tĩnh của tôi khá kém cõi.  Tuy thế, tâm trạng ấy không duy trì trong hai bốn giờ.  Nếu những cảm xúc tiêu cực ở ngay trong bản chất của tâm, thế thì khi tâm đang thể hiện chức năng thì  nóng giận phải hiện hữu.  Tuy thế, không phải trường hợp này.  Tương tự thế, những cảm xúc tích cực cũng không ở trong bản chất của tâm.  Tâm làđiều gì đấy trung tính, phản chiếu tất cả các loại kinh nghiệm  hay hiện tượng khác nhau.

Xa hơn nữa, ranh giới giữa những cảm xúc tích cực và tiêu cực là gì?  Chắc chắn không có ranh giới mà chỉ là một thứtương đối.  Những cảm xúc này, chẳng hạn như từ ái, bi mẫn, và tuệ trí sản sinh hạnh phúc là vi tế hơn, thường trực hơn, tồn tại lâu hơn, và toại nguyện hơn là tích cực.  Đấy là bởi vì chúng ta xem hạnh phúc như điều gì đấy tốt đẹp và điều gì đấy mà chúng ta phải đạt đến.  Mọi thứ có thể hổ trợ trong phương hướng ấy, chúng ta xem là tích cực.  Những cảm xúc tích cực này cuối cùng chuyển hóa chúng ta thành những người hạnh phúc hơn, chắc chắn và đáng tin cậy hơn.  Đấy là bởi vì chúng là tốt lành mặc dù chúng ta không thể xác định chúng như thế trong ý nghĩa tuyệt đối.  Mọi  người nhận thức chúng trên trình độ quy ước và do thế đây là những cảm xúc tích cực.

Mặc dù những cảm xúc tích cực và tiêu cực là mạnh mẽ như nhau, các cảm xúc tiêu cực thường xảy ra mà không có sở cứ nhiều và thật sự chỉ là cảm xúc.  Nếu chúng ta thẩm tra một cách khách quan  giá trị của giận dữ, thù oán, ganh tỵ, nghi ngờ, lưỡng lự hay sợ hãi, chúng ta thấy rằng không có nền tảng hay lý trí sâu sắc cho những cảm xúc này.  Theo khái niệm Đạo Phật, đặc biệt, quan điểm của triết lý Trung Quán, những cảm xúc tiêu cực này chủ yếu căn cứ trên si  mê.

Si mê ở đây liên hệ đến một thức mà nó nhận định bản chất của các đối tượng như có một sự tồn tại độc lập.  Rất rõ ràng rằng khi những cảm xúc nào đó phát triển, tại thời điểm ấy, đối tượng mà chúng ta cảm thấy một cách tiêu cực đối với hiện tướng như tuyệt đối, điều gì đấy tiêu cực 100 phần trăm.  Cho đến khi đối tượng ấy còn hiện hữu, thì đối tượng ấy tuyệt đối là tiêu cực.  Nhưng ngay khi cảm xúc ấy giảm thiểu, cảm tưởng tổng thể cũng trở nên tích cực hơn.  Điều này cho thấy những cảm xúc tiêu cực có thể không biểu hiện chức năng khi không có sự hổ trợ của si mê.

Tất cả những cảm xúc tiêu cực, do thế, căn cứ trên sự si mê như vậy.  Sự si mê hay nhận thức sai lầm này, bất chấp nó mạnh mẽ như thế nào, cũng có thể tiêu trừ. Qua khảo sát và thiển quán, chúng ta có thể tăng cường sự thấu hiểu sâu sắc hơn.  Cuối cùng, tính tiêu cực sẽ bịgiảm thiểu và bị loại trừ một cách căn bản. Đấy là bản chất của tâm.

Tất cả chúng ta có một khát vọng bẩm sinh cho hạnh phúc.  Hạnh phúc và bất hạnh tùy  thuộc trên những cảm xúc tích cực và tiêu cực.  Bản chất cốt yếu của tâm là thanh tịnh, vì thếcó một khả năng để giảm thiểu các cảm xúc tiêu cực và gia tăng những cảm xúc tích cực.  Do vậy, có khả năng để vượt thắng khổ đau.  Đức Phật giải thích điều này như chân lý thứ hai.  Ngài giải thích những cảm xúc nghiệp chướng hay tiêu cực, sự thật về khổ đau được liên hệ như tâm nhiễm ô và nghiệp ô nhiễm.  Nhằm để thấu hiểu một cách thật sự ý nghĩa của chân lý thứ hai là tập đế hay nguyên nhân của khổ đau, chúng ta phải nghiên cứu sâu trong ý nghĩa của diệt đế (chân lý thứ ba – sự  ngừng dứt).

Thuyết giáo lần đầu tiên Đức Phật giảng giải Bốn Chân Lý Cao Quý.  Thuyết giáo lần thứ hai chi tiết hơn về chân lý thứ ba – diệt đế.  Trong thuyết giáo lần thứ ba, có một sự diễn giải thậm thâm hơn về bản chất của tâm, được liên hệ với Bốn Chân Lý Cao Quý.  Ở đây là cả một khảnăng của việc giảm thiểu những cảm xúc tiêu cực cũng như việc đạt đến hạnh phúc thường trực.  Đấy là niết bàn.

Một khi chúng ta thấu hiểu mục tiêu, chỉ khi ấy chúng ta mới có thể tiêu trừ những cảm xúc tiêu cực.  Nó được hoàn tất qua việc thực hành và rèn luyện tâm.  Nhằm đểphát triển một nổ lực chân thành không mõi mệt, chúng ta cần quyết tâm.  Vì việc ấy, cực kỳ quan trọng để biết ý nghĩa của khổ đau.  Nếu có một khả năng cũng như mục tiêu để vượt thắng khổ đau, thật đáng để tư duy và thấu hiểu khổ đau.  Càng nhận rõ, chúng ta càng quyết tâm để vượt thắng khổ đau ấy.

Đấy là tại sao mà tầm quan trọng của việc nhận ra sự viễn ly được giải thích.  Có hai trình độ của tinh thần viễn ly: tinh thần viễn ly những khoái lạc của đời sống này và tinh thần viễn ly những khoái lạc của kiếp sống tới.  Thí dụ, khi chúng ta nghĩ về khổ đau trong sáu cõi luân hồi – khổ đau của loài người, của thú vật, và v.v… và tương tự đối với các khổ đau như tuổi già, bệnh tật, và sự chết, và v.v…, chúng ta sẽ có thể phát sinh một tinh thần viễn ly, hay nguyện ước đểgiải thoát chính mình khỏi cõi sinh tử luân hồi.

Nhằmđể phát sinh một cảm nhận ý  nghĩa mạnh mẽcủa viễn ly đối với khoái lạc hay luyến ái của kiếp sống tới, trước nhất thật quan trọng để có một sự thấu hiểu về khổ đau của những sự tái sinh thấp hơn (như địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh).  Cũng có một lý do thực tiển hơn – mục tiêu cứu kính là Quả Phật, là điều mà chúng ta có thể đạt đến qua thiền quán và những sự thực hành khác nào đấy.  Việc ấy có thể cần thời gian vô số kiếp hay có thể là hàng nghìn hay hàng trăm năm.  Do vậy đối với chúng ta để thực hành một cách liên tục, chúng ta phải bảođảm một sự tái sinh tốt đẹp trong kiếp sống tới.  Mặc dù khuynh hướng của chúng ta là Quả Phật, nhưng vì những lý do thực tiển, trong khi chuẩn bị cho việc ấy, chúng ta không nên hờ hửng với những kiếp sống tương lai.  Do vậy, trong khi chúng ta đang dự tính lâu dài cho Quả Phật, chúng ta cũng phải chuẩn bị hoàn toàn cho những điều kiện tiên quyết tức thời.

Một khi chúng ta phát sinh một tinh thần viễn ly đối với luyến ái và khoái lạc của kiếp sống này, thì chúng ta tự nhiên nghĩ về những khoái lạc tương lai một loại luyến ái nào đấy đối với kiếp sống tới.  Sự luyến ái ấy cũng phải chấm dứt dần dần qua sự thực hành mười thiện nghiệp và bằng việc loại bỏ mười điều bất thiện.  Những việc này rơi vào giai đoạn thứ nhất của giáo huấn tiệm tiến lamrim, là điều chính yếu dạy cho những người với trí thông minh thấp hơn trung bình.

Đểtăng trưởng lòng tự tin, thật lợi lạc để thiền quán về sự quý giá của tái sinh kiếp người.  Với sự hổ trợ của thân thểcon người và sự thông minh con người chúng ta có thể làm mọi thứ nếu chúng ta thực hiện một nổ lực.  Trong Hướng Dẫn Lối Sống Bồ Tát, chúng ta có những giáo huấn liên hệ đến Phật tánh, hạt giống Phật, sugatagarbha, hay tathagatagarbha.  Thểtrạng giác ngộ này, bản chất cứu kính mà mọi chúng sinh sở hữu, minh chứng rằng luôn luôn có khả năng để loại trừ những cảm xúc phiền não.

Suy tư theo những dòng này giúp để phát triển lòng tự tin.  Nhiều người, đặc biệt ở phương Tây, có lòng tựtrọng thấp.  Tôi nghĩ là rất nguy hiểm và thật sự ngây ngô.  Chúng ta có một thân thể, não bộ và tuệ trí của chúng ta.  Nếu chúng ta thực hiện một sự cố gắng qua thiền quán và lòng vị tha, thì có thểphát triển tâm chúng ta. Với thời gian và nổ lực nó có thể thay đổi.  Bằng việc tự nhắc nhở chúng ta liên tục điều tích cực và điều tiêu cực, chúng ta có thể thay đổi sự việc.  Lòng tự tin, cho dù trong những sự thực hành tôn giáo hay đời sống thế tục, là một nhân tố rất quan trọng.

Bi mẫn là một nhân tố rất thiết yếu ở đây.  Một tâm bi mẫn hơn tự động mở một loại cửa nội tại nào đó.   Nó trở nên rất dễ dàng để giao tiếp với những con người đồng loại, thú vật và côn trùng.  Khi thái độ của chúng ta cởi mở và không có gì dấu diếm, lập tức tạo nên một căn bản cho tình thân hữu.  Tuy nhiên, một cảm giác như sợ hãi đóng cánh cửa đó lại.  Ngoại trừ chúng ta tạo nên loại nền tảng ấy cho chình mình, thật khó khăn để tìm thấy bạn bè chân thành.  Cho dù người khác có đáp ứng hay không, nếu chúng ta mĩm cười không nghi ngờ và do dự, sẽ có một cơ hội lớn hơn để đón nhận một nụ cười đáp lại.

Những cảm xúc tiêu cực phủ nhận khả năng này.  Chúng ta sau đó thận trọng cô lập chính mình với tất cả mọi người còn lại, và như một kết quả, phật ý, cô đơn, sợ hãi, nghi ngờ, thất vọng, và phiền muộn sinh khởi.  Bi mẫn, trái lại, cho chúng ta sức mạnh nội tại.  Nó mở ra “cánh cửa nội tại”  của chúng ta và đem đến những kinh nghiệm tốt đẹp hơn.

Khái  niệm Phật tánh, quan niệm về sự quý giá của kiếp sống này và thân thể này là rất quan trọng cho việc phát triển lòng tựtin.  Chúng ta cũng có giáo huấn về vô thường, là điều cũng rất thích đáng.

Tôi muốn đề cập ở đây rằng người ta rất thường sai lầm rằng vị kỷ là tiêu cực, rằng chúng ta hoàn toàn không nên có cái ”tôi”.  Tôi nghĩ, có hai loại cái ”tôi”.  , giống như có hai loại khát vọng.  Dĩ nhiên hai loại cảm nhận về cái “tôi”, cảm nhận về một cái “tôi” mạnh mẽ mà quên đi quyền lợi của người khác, và trong ấy người ta xem chính mình là quan trọng hơn người khác, là sai.  Loại cái ”tôi”.  khác, làm cho chúng ta  cảm thấy “tôi làm việc này, tôi có thể hổtrợ, tôi có thể phụng sự” là tích cực.  Các vị bồ tát, tôi  nghĩ, có những cái ”tôi” trong ý nghĩa này.

Cái “tôi” loại này phát triển quyết tâm kỳ lạ trong những ai sở hữu nó.  Đối với họ những ngày, tháng, năm là vô nghĩa.  Họ đếm bằng a tăng kỳ kiếp (vô số kiếp).  Không chỉ một hay hai a tăng kỳkiếp, mà là hàng triệu, vô số a tăng kỳ kiếp.   Một thời gian không thể tưởng tượng được như vậy không làm họ nản lòng, cũng không làm họ nhụt chí bởi số lượng vô số chúng sinh mà số lượng của họ là vô giới hạn.  Quyết tâm của họ là để làm việc gì đấy cho ột con số vô hạn chúng sinh trong một thời gian vô hạn.  Quyết tâm không lay chuyển  như vậy là không thể có mà không có một cái “tôi” cụ thể mạnh mẽ.  Cái “tôi” ấy là tích cực.  Nó là cần thiết, hữu ích và xây dựng.  Chúng ta phải phát triển nó.

Khácđi là cái “tôi” ngô nghê là cái tôi bất chấp quyền lợi của kẻ khác, quên lãng người khác và muốn đạt được điều gì đấy bằng việc khai thác người khác.  Bây giờ với cái “tôi” loạiấy, người ấy cuối cùng sẽ bị thua cuộc và khổ đau.

Tương tự thế, có hai loại khao khát.  Một là khao khát với mục tiêu tốt đẹp.  Loại khao khát này đưa đến quyết tâm.  Theo Đạo Phật, chúng ta cuối cùng đạt đến  Quả Phật do bởi khao khát này.  Loại khao khát kia là không có lý trí – chỉ là lòng khao khát “tôi muốn điều này, tôi muốn điều nọ”.  Loại khao khát này không có nền tảng thích đáng rất thường đưa đến  thảm họa.  Một số người có cảm nhận rằng vì giáo lý xác định khao khát như cội nguồn của tất cả những khổ đau, nên tất cảkhao khát là sai.  Đây là một nhận thức sai lầm.

Thực tập tiếp theo là vô thường.   Ở đây một  lần nữa, có hai trình độ.  Một là vô thường ở trình độ thô, giống như sựchết hay những bất hạnh khác hay khi những kinh nghiệm nào đó thay đổi hay chấm dứt.  Tính vô thường vi tế hơn là sự thayđổi từng giây phút.  Vật lý học hiện đại cũng đã giải thích điều này.  Thí dụ,bông hoa này trước mặt chúng tôi đang thay đổi ở ngay tại trình độ vi tế, thayđổi không ngừng giống như sóng, như năng lượng. Đây là tính vô thường vi tế.

Nhận rõ tính vô thường rất hữu ích và quan trọng bởi vì chúng ta thực chứng rằng nó xảy ra một cách đơn giản qua những nguyên nhân của chính chúng.  Do thế, sự hoại diệt hay bản chất vô thường của các hiện tượng không tùy thuộc trên sự cần thiết chạm trán với những nguyên nhân và điều kiện mới.  Qua chính bản chất của chúng sinh được sản sinh bởi những nguyên nhân và điều kiện của chúng, nên chúng là đối tượng của sự hoại diệt và thay đổi.

Lấy trường hộp thân thể hay đời sống của chúng ta.  Theo quan điểm của Đạo Phật, không có hạnh phúc thường trực khi mà mọi thứ vẫn còn bị kiếm soát, ảnh hưởng, hay khống chế của si mê.  Một khi si mê bị loại trừ, niết bàn được đạtđến.  Cho đến khi mà cùng tâm ấy bị ảnh hưởng bởi si mê, và cho đến khi mà tình trạng ấy tồn tại, thì đấy là luân hồi.  Ngay khi si mê được loại trừ, khổ đau chấm dứt.  Đấy là moksha, hay giải thoát.  Giải thoát hay cứu độ, không phải là một thểtrạng an lạc hay điều gì đó bên ngoài.  Nó là một phẩm chất nội tại.  Do vậy, sự tỉnh thức của trình độ sâu sắc hơn về vô thường là rất hữu ích nhằm để phát triển khao khát hay quyết tâm để đạt đến giải thoát.  Trong cách này, khi chúng ta nghĩ về những trình độ khác nhau về bản chất của vô thường, chúng ta thâm nhập giai trình thứhai hay tầng thứ hai của sự thực tập thiền quán trên con đường Giác Ngộ.  Bằng việc phản chiếu trên ý  nghĩa của trình độ thô của vô thường, chúng ta  phát sinh một sự ngưỡng mộ mạnh mẽ để đạt đến điều gì đó tốt đẹp hơn trong kiếp sau.  Và khi chúng ta nghĩ về bản chất trình độ vi tế của vô thường, chúng ta phát sinh một sự ngưỡng mộ mạnh mẽ để đạt đến niết bàn.

Giống như  chúng ta quan tâm cho chính mình và nghĩ về những phương thức để loại trừ khổ đau và hiện thực niết bàn và giải thoát và thể trạng an lạc cứu kính như thế nào, nếu chúng ta hướng tư duy của chúng ta đến những người khác và quan tâm với chính chúng ta với lợi ích của những chúng sinh khác và phản chiếu trên việc loại trừ khổ đau của họ, chúng ta phát sinh l.òng vị tha hay nguyện ước hiện thực Giác Ngộ vì lợi ích của họ.  Động cơ ấy là tâm giác ngộ – tâm bồ đề -bodhicitta, quyết định cần thiết nếu chúng ta muốn đạt đến Quả  Phật.

Thật là kỳ diệu rằng tâm con người có thể phát sinh loại quyết tâm hay ý chí kiên định này.  Một khi chúng ta phát triển tâm bồ đề quý giá ấy, bất kể phạm trù tôn giáo, chúng ta trở nên cực kỳ can trường, nhiệt tình và hữu dụng đối với xã hội.  Theo sự thực hành Phật Giáo, tâm bồ đề là một phẩm chất phi thường hay kỳ diệu như vậy mà khi chúng ta phát tâm ấy, tất cả những tiêu cực được tịnh hóa và tất cả những phẩm chất tích cực trở nên năng động.  Một khi chúng ta phát sinh tâm quý giá ấy, tâm ấy bảo đảm cho một sự tái sinh thánh thiện cũng như con đường tốt đẹp  trong tương lai.  Nói cách khác, nó chuẩn bị cho chúng ta một hành trình trên con đường đến Giác Ngộ.

Sau loại quyết tâm ấy là đi đến sự thực tập về mười ba la mật, hay hoàn thiện, chẳng hạn như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và tuệ trí.  Trong mười ba la mật, đây là sáu hoàn thiện.

Đấy là phương thức thực hành của bồ tát Đại Thừa.  Hơn nữa đối với việc ấy, chúng ta còn có sự thực hành Mật Thừa.  Nếu chúng ta đi xa hơn sự bổ sung việc thực hành Đại Thừa này với sự thực hành Mật Thừa, rồi thì trong  Mật tông có bốn bộ: Tantra Hoạt Động, Tantra Thực Hiện, Tantra Yoga, và Tantra Yoga Tối Thượng.

Trong giáo huấn Mật Thừa, thật quan trọng để quán tưởng chính mình như một bổn tôn -không chỉ là quán tưởng – mà chúng ta phải thiền quán về tánh không, hay sunyata; rồi thì tuệ trí ấy được chuyển hóa trong trình độ mà sự quán tưởng của chúng ta trong hình sắc của bổn tôn, hình sắc của vị Phật.  Xa  hơn nữa, thủ trì hình sắc hay thân thể Đức Phật như chủ đề, chúng ta phản chiếu bản chất  hay tánh không hay chân như của sắc thân Phật.  Nên tính thậm thâm của sự thực hành mật tông là đảm đương qua sự thực hành như vậy.  Chúng ta quán chiếu trên bản chất của bổn tôn và đồng thời trên bản chất cứu kính của nó.  Do vậy, chính tuệ trí năng động được phối hợp với sự quyết tâm trên căn bản của tâm bồ đề.  Như một kết quả, một số hành động phẩn nộ cũng trở nên rất hữu dụng vào lúc ấy.  Thế nên, những bổn tôn phẩn nộ hiện hữu, và thật lợi ích để làm một sự phân biệt giữa sân hận và thù oán, và từ ái hay bi mẫn và luyến ái.  Điều này là quan trọng.  Đấy là sự thực tập mật tông một cách tổng quát.

TrongĐại Tối Thượng Tantra Yoga (Vô thượng du già), một sự thực hành đặc thù đang thực hiện một sự phân biệt trong trình độ thô, vi tế, và cực kỳ vi tế của tâm.  Có những kỷ thuật để trung tính hóa trình độthô của tâm sau khi tâm cực kỳ vi tế đi đến hoạt động.  Tâm vi tế ấy, rồi thì, được chuyển hóa thành tuệ trí, tuệ trí ấy năng động hơn những tuệ trí căn bản trong đặc trưng của trình độ thô của tâm.  Đấy là hệ thống củaĐại Tối Thượng Tantra Yoga.  Trong Phật Giáo Tây Tạng, chúng ta phối hợp giáo lý căn bản của Bốn Chân Lý Cao Quý với tâm bồ đề và sáu ba la mật với bồn tôn du già và những loại thực tập du già nàođó.  Đầu tiên chúng ta đặt nền tảng và rồi xây dựng trên đấy để đạt đến cực điểm của sự thực hành.  Thật quan trọng để biết rằng không có sự thực hành Mật Thừa hay tâm bồ đề và chỉ với sự thực hành Bốn Chân Lý Cao Quý, chúng ta chỉ có thể đạt đến giải thoát.  Trái lại, không có sự thực hành Bốn Chân Lý Cao Quý căn bản, giáo huấn chỉ mười ba la mật hay Mật Thừa không thôi là không thể.

Không có Mật giáo Kim Cương Thừa, chỉ qua Kinh Thừa Hiển giáo thôi, chúng ta có thểthực hành và đạt đến một kết quả toại nguyện.  Nhưng đối lại – chỉ thực hành Mật giáo mà không có Hiển giáo – thì không thể đạt đến một kết quả toại nguyện.  Các giáo huấn là tầng căn bản, tầng thứ nhất, tầng thứ hai, v.v… của một tòa nhà.   Không có tầng căn bản thì không thểxây dựng tầng thứ nhất.

Thật quan trọng để thấu hiểu điều này bởi vì con người đôi khi không kiên nhẫn và muốn Quả Phật tức thời mà không quan tâm đến Bốn Chân Lý Cao Quý hay sáu ba la mật.  Sự thực hành Bổn Tôn, mạn đà la và trì niệm mà thôi sẽ không thành công.  Chúng ta phảiđi từng bước một.

Đức Đạt Lai Lạt Ma – Chuyển ngữ: Tuệ Uyển / 7-5-2012

http://thuvienhoasen.org

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.