Hạnh Phúc Chân Thường – Phần IV

SUY NGẪM VỀ NĂNG LỰC CỦA CHÚNG TA NHƯ LÀ ĐỐI LỰC CỦA TỰ HẬN

Trong chuyến viếng thăm Ấn Độ vào năm 1991, hai năm trước khi đức Đạt Lai Lạt Ma viếng Arizona, tôi có dịp gặp Ngài tại nhà riêng ở Dharamsala. Tuần lễ đó, Ngài phải hàng ngày gặp gỡ các khoa học gia Tây phương, các nhà vật lý, tâm lý gia cũng như các giáo sư y khoa … trong cố gắng tìm hiểu mốt liên hệ Tâm-Vật trong con người cũng như sự tương quan giữa cảm xúc tâm lý và sức khỏe thể chất. Tôi gặp đức Đạt Lai Lạt Ma vào một buổi chiều sau khi Ngài nói chuyện với một số khoa học gia. Trong buổi đàm luận, đức Đạt Lai Lạt Ma hỏi:

“Anh biết là tuần này tôi có dịp gặp gỡ các khoa học gia ?”

“Vâng” tôi đáp.

“Trong tuần này có vài điều làm cho tôi rất ngạc nhiên – Ý niệm tự hận (thù ghét chính mình) – Anh biết ý niệm này chứ?”

“Tôi biết khá rõ. Rất nhiều bệnh nhân của tôi bị dằn vặt về cảm xúc này.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma nói tiếp: “Khi nghe người ta nói về ý niệm này, đầu tiên tôi có cảm tưởng là tôi hiểu lầm ý nghĩ của họ.” Ngài cười và nói tiếp: “Tôi nghĩ rằng ai cũng yêu bản thân, làm sao người ta lại có thể tự ghét mình? Dù có được một ít hiểu biết về phương pháp hoạt động của tâm thức, ý niệm tự hận thật hoàn toàn mới mẻ đối với tôi. Lý do khiến tôi không thể tin được ý niệm này vì rằng thực hành Phật pháp là để khắc phục thái độ ích kỷ, ý tưởng chỉ nghĩ đến mình, cho mình là nhất … Từ quan điểm này, tôi nghĩ rằng chúng ta yêu thương và chăm sóc mình quá nhiều. Cho nên nói đến chuyện một cá nhân không quan tâm đến mình hoặc hơn nữa, thù ghét chính họ là điều rất khó hiểu. Với tư cách là một tâm lý gia, anh có thể giải thích cho tôi biết vì sao ý niệm này phát khởi trong tâm lý con người?”

Tôi diễn đạt một cách tóm lược quan điểm của ngành tâm lý trị liệu về việc cảm giác tự hận đã xuất hiện bằng cách nào. Tôi cũng giải thích về hình ảnh chính mình của con người đã rập khuôn theo cha mẹ như thế nào trong lúc lớn khôn, chúng ta đã tiếp nhận các thông điệp tiềm ẩn về mình từ cha mẹ trong lúc trưởng thành và phát triển như thế nào, và tôi cũng nói qua về những hoàn cảnh đặc biệt đã tạo nên những nét tiêu cực trong hình ảnh chính mình của con người. Sau đó, tôi đề cập đến các dữ kiện chi tiết đã gây ra cảm giác tự hận như khi hành vi của mình không đáp ứng đúng các hình ảnh đã được lý tưởng hóa. Trong vài trường hợp, cảm giác này được củng cố bởi tập tục và thói quen nhất là đối với phụ nữ và các sắc tộc thiểu số. Khi nghe tôi trình bày những chi tiết này, đức Đạt Lai Lạt Ma gật đầu tỏ vẻ thích thú với những biểu lộ trên nét mặt cho thấy làm như Ngài vẫn chưa chấp nhận hoàn toàn cái ý niệm lạ lùng này.

Groucho Marx đã một lần phát biểu: “Tôi không bao giờ gia nhập một câu lạc bộ nếu họ chỉ muốn có hội viên.” Khai triển lối nhìn tiêu cực này về bản chất con người, Mark Twain nói: “Tận cùng trong phần sâu kín nhất của tâm hồn, không một người đàn ông nào cảm thấy chính hắn đáng được tôn trọng”. Lối nhìn người bi quan này được nhà tâm lý nhân bản Carl Rogers phối hợp với những lý thuyết tâm lý của ông để cho rằng: “Hầu hết mọi người đều coi thường chính mình, xem mình không có giá trị và không thể yêu thương được.”

Có một nhận xét khá phổ dụng trong xã hội chúng ta được hầu hết các tâm lý gia đồng ý là cảm giác thù ghét chính mình đang lan tràn trong lối sống Tây phương. Điều may mắn là mặc dù cảm xúc này hiện hữu thật sự, nó không đến nỗi quá phổ quát như nhiều người tin tưởng. Đây rõ ràng là một vấn nạn khá phổ thông trong số những người tìm đến ngành tâm lý trị liệu. Nhưng lắm khi, các chuyên viên trị liệu tại các dưỡng đường có một cái nhìn thiên lệch, có khuynh hướng áp đặt quan niệm phổ thông của mình về bản chất con người lên những bệnh nhân bước chân qua cửa phòng mạch của họ. Tuy vậy, những bằng chứng dựa vào các dữ kiện thực nghiệm trong các cuộc nghiên cứu về mục tiêu và phẩm chất đời sống đã cho rằng thông thường, người ta có khuynh hướng (hay ít nhất, người ta muốn) xem mình ‘khá hơn bình thường’, muốn được đối xử khác hơn mọi người.

Bởi đó, tuy tự hận không đến nỗi có tính cách toàn cầu như người ta tưởng, cảm giác này vẫn là chướng ngại khủng khiếp đối với rất nhiều người. Và tôi đã rất ngạc nhiên đối với phản ứng của đức Đạt Lai Lạt Ma về ý niệm này. Chỉ riêng phản ứng này của Ngài cũng giúp người ta bớt nản chí. Có hai điểm cần phải nghiên cứu liên hệ đến phản ứng của đức Đạt Lai Lạt Ma. Điểm thứ nhất là Ngài chưa nghe đến cảm xúc tự hận. Giả thuyết căn bản cho rằng tự hận là cảm xúc phổ thông của nhân loại đã khiến người ta có ấn tượng rằng cảm xúc này đã ăn sâu trong tâm lý con người. Nhưng sự thật là ý niệm này đã không hề được biết đến trong những nền văn hóa khác, trong trường hợp này là nền văn hóa Tây Tạng, và điều này nhắc nhở chúng ta một cách mạnh mẽ rằng trạng thái tâm thức phiền toái này, giống như những trạng thái tâm lý tiêu cực khác mà chúng ta đã có dịp nói đến trước đây, không có tính cách nội tại tức không phải là bản chất thực của tâm thức con người. Cảm xúc này không hiện hữu khi chúng ta sinh ra, không có tính cách bất khả hủy và cũng không phải là một đặc tính không thể tẩy xóa của bản chất nhân loại. Nó có thể bị hủy diệt. Nhận thức được như vậy đã làm giảm thiểu bớt sức mạnh của cảm xúc tự hận, đã giúp chúng ta hy vọng và gia tăng quyết tâm của mình nhằm triệt tiêu cảm xúc này.

Điểm thứ hai trong phản ứng của đức Đạt Lai Lạt Ma là Ngài đã thốt lên “Thù ghét chính mình ? Tôi tưởng là chúng ta ai cũng yêu thương mình chứ?” Đối với những ai đã bị khổ sở vì cảm xúc tự hận, hoặc biết một người nào đó ở trong hoàn cảnh này, người ta có thể cho phản ứng của đức Đạt Lai Lạt Ma là vô cùng giả tạo. Nhưng nếu nghiên cứu kỹ, người ta thấy có một sự thật trong phản ứng của Ngài. Thương yêu rất khó định nghĩa và có rất nhiều định nghĩa về yêu thương. Nhưng có một định nghĩa (có thể là định nghĩa thuần khiết và cao vợi nhất) của yêu thương là ước muốn tối hậu, tuyệt đối và hoàn toàn cho hạnh phúc của kẻ khác. Đây là ước vọng với tất cả tấm lòng cho một người nào đó, không kể đến việc họ có thể gây ra thương tổn cho mình hoặc ngay cả đến mình có thích họ hay không. Trong đáy lòng, rõ ràng là ai cũng muốn được hạnh phúc. Vậy nếu định nghĩa của chúng ta về yêu thương dựa trên ước vọng chân chính là hạnh phúc của mọi người thì mọi người trong chúng ta phải yêu thương chính mình, mọi người trong chúng ta phải thật lòng mong cho mình có hạnh phúc (vì mình là một phần của mọi người). Trong nghề nghiệp, đôi khi tôi gặp những bệnh nhân có cảm xúc tự hận quá độ đến nỗi đã nhiều lần có ý định quyên sinh. Nhưng ngay trong những trường hợp quá độ như vậy, ý tưởng chết chóc cũng dựa trên ước vọng giải thoát họ khỏi khổ não chứ không phải gây tạo khổ não cho mình.

Bởi thế, có lẽ đức Đạt Lai Lạt Ma cũng không đi xa lắm với những tin tưởng căn để của Ngài rằng yêu thương chính mình là bản chất căn để của chúng ta. Ý tưởng này có thể được coi là một đối lực cho cảm xúc tự hận: Chúng ta có thể trực tiếp chống đối lại cảm tưởng ghét bỏ chính mình bằng cách tự nhắc nhở rằng có thể chúng ta không ưa thích một vài phương diện nào đó trong bản ngã của mình, nhưng suy cho cùng thì chúng ta vẫn mong mỏi cho mình được hạnh phúc, và đây là một hình thức yêu thương vô cùng sâu xa, vi diệu.

Trong lần viếng thăm Dharamsala kế tiếp, tôi có dịp đề cập cảm xúc tự hận một lần nữa với đức Đạt Lai Lạt Ma. Đến bây giờ thì Ngài đã làm quen với ý niệm này và bắt đầu khai triển những biện pháp để đối phó. Ngài giải thích:

“Theo quan điểm nhà Phật, tình trạng suy thoái và chán nản được coi là những trở lực trong công cuộc đạt đến những mục tiêu của con người. Tình trạng tự hận xem ra còn quá độ hơn nhiều so với cảm xúc nản chí, ngã lòng, và đây là điều rất nguy hiểm. Đối với hành giả Phật giáo, phản đề của tự hận là suy ngẫm đến sự kiện rằng tất cả chúng sinh (kể cả mình) đều có Phật tính – tức là hạt giống hay tiềm năng của sự toàn thiện, của sự giác ngộ hoàn toàn- bất kể đến hiện trạng của chúng ta có yếu đuối, nghèo khổ, bần cùng đến đâu chăng nữa.

“Bởi thế, những Phật tử nào bị phiền não vì cảm xúc tự hận hãy tránh suy nghĩ đến bản chất khổ não và bất như ý của cuộc sinh tồn. Thay vào đó, hãy quan sát những phương diện tích cực của cuộc sống như trân quý tiềm năng vô hạn trong tâm thức con người. Bằng cách quán tưởng đến những tiềm năng và cơ hội quý báu này, người ta có thể phát huy được cảm giác tự tin và biết mình có giá trị.”

Tôi đưa ra một câu hỏi tiêu chuẩn từ viễn tượng của một người không phải là Phật tử: “Vậy thì cái gì có thể được coi là đối lực (cho cảm xúc tự hận) đối với những người chưa từng nghe đến ý niệm Phật tính hay những người không phải là Phật tử?”

“Có một đặc điểm mà mọi người đều nhận biết và ta có thể dùng làm đối lực cho những người không phải là Phật tử, đó là chúng ta có được một tặng phẩm tuyệt vời: Sự thông minh kỳ diệu. Bên cạnh đó, chúng ta còn có khả năng tạo ra quyết tâm và hướng quyết tâm đó vào đường hướng mà chúng ta thích. Không ai có thể nghi ngờ khả năng này của con người. Vì vậy, nếu hiểu rằng chúng ta có những tiềm năng và nếu cứ tự nhắc nhở mình mãi cho đến khi trở thành thói quen trân quý ‘thân người’ mà mình đang có thì người ta có thể giảm thiểu được cảm xúc chán nản, vô vọng và tự khinh mình”.

Đức Đạt Lai Lạt Ma ngừng lại một lúc rồi nói tiếp với âm điệu cao thấp khác nhau chứng tỏ Ngài vẫn hăng hái trong việc tìm tòi, khám phá: “Tôi cho rằng ở đây có một sự tương đồng với các phương thức mà người ta dùng để trị liệu những bệnh tật của thể xác. Khi trị bệnh, bác sĩ không chỉ đơn thuần sử dụng thuốc kháng sinh để chữa trị một căn bệnh nào đó mà ông ta còn phải tìm hiểu xem thể chất bệnh nhân có chấp nhận thuốc kháng sinh hay không. Để giúp người bệnh có khả năng thu nhận những kháng tố, bác sĩ cũng phải giúp người ta có các điều kiện thể lực tốt đến một mức độ nào đó bằng cách cho họ dùng thêm sinh tố chẳng hạn. Nếu người bệnh có thể lực khá thì tự thân, họ đã có khả năng chống lại bệnh tật đến một giới hạn nào đó rồi. Tương tự như thế, nếu chúng ta hiểu biết và luôn luôn nhận thức rằng con người được sinh ra với một tặng phẩm cao quý là sự thông minh, rằng chúng ta có khả năng phát triển quyết tâm và sử dụng quyết tâm đó vào những đường hướng tích cực. Nghĩa là ở một phương diện nào đó, chúng ta có một sức mạnh tinh thần căn để, một sức mạnh chỉ có được khi chúng ta mang thân người với những tiềm năng vĩ đại”.

Nhận thức này có thể hoạt động như một kết cấu nội tại giúp chúng ta ứng xử với những hoàn cảnh khó khăn mà không bị mất đi niềm tin hay rơi vào trạng thái tự hận. Tự nhắc nhở mình về những phẩm chất cao trọng mà chúng ta chia xẻ với tất cả nhân quần có thể vô hiệu hóa ý tưởng cho mình là xấu hay không xứng đáng. Rất nhiều người Tây Tạng quán tưởng như vậy mỗi ngày cho nên có thể đấy là lý do tại sao ý niệm tự hận không hiện hữu trong đời sống của họ.

Đức Đạt Lai Lạt Ma – Bác Sĩ Howard C. Cutler – Nguyên Dực chuyển ngữ

http://www.quangduc.com


[1] Bàn về sân hận, Khổng Tử có nói “Dằn tâm giận xuống một lúc thì khỏi lo sợ cả trăm ngày. Nên chi việc đáng nhịn thì nhịn, chuyện đáng răn thì răn. Nếu chẳng nhịn chẳng răn thì chuyện nhỏ hóa to. Bao nhiêu chuyện phiền não đều do chẳng nhịn mà ra.”

Kinh Phật cũng xác định: “Nhất niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai” tức là một niệm sân hận nổi lên thì trăm nghìn cửa nghiệp chướng đều mở; hoặc “Nhất sân chi hỏa năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn” nghĩa là một đốm lửa sân hận nổi lên có thể thiêu đốt ngàn vạn rừng công đức (Phụ chú của người dịch).

[2] Potala là lâu đài mùa đông theo truyền thống của các vị Lạt Ma, đồng thời cũng là biểu tượng tôn giáo và di tích lịch sử của Tây Tạng. Potala được vua Song-Tsen Gampo xây dựng vào thế kỷ thứ 7 và sau đó bị hư hại; mãi cho đến thế kỷ 17, đức Lạt Ma thứ 5 mới khởi sự tái thiết. Kiến trúc hiện tại cao khoảng 150 mét, toạ lạc trên đỉnh đồi Red Hill tại Lhasa, với chiều dài gần 400 mét, gồm 13 tầng với hàng ngàn phòng, sãnh đường, đền thờ, nhà nguyện …

[3] Duy thức học Phật giáo gọi là căn bản phiền não tức là những cảm xúc rất khó diệt trừ vì có cội rễ sâu thẳm trong tâm thức. Bảy món kiêu mạn mà tác giả nói đến là mạn, ngã mạn, quá mạn, mạn quá mạn, tăng thượng mạn, ty liệt mạn, tà mạn. (dịch giả phụ chú)

This entry was posted in Tuyển Chọn. Bookmark the permalink.