Biên Niên Tự Thuật Của Thiền Sư Hư Vân

Ngày thứ ba:

Thời gian trôi qua mau chóng. Vùa nói đả thiền thất thì đã qua ba ngày rồi. Người biết dụng công, xoay lại tham chiếu câu thoại đầu được, thì tất cả trần lao, vọng niệm đều từ từ lắng đọng, rồi thỏng tay đi thẳng về nhà. Vì vậy, người xưa nói: “Tu hành không cách chi hết, thiết yếu phải biết đường về. Lộ trình nếu rõ, sanh tử liền ngưng.”

Lộ trình của chúng ta, trọng yếu là xả bỏ thân tâm thì trong gang tấc sẽ về đến nhà. Lục tổ Huệ Năng bảo: “Niệm trước không sanh là tâm, niệm sau không diệt là Phật.”

Bốn đại, đất nước gió lửa vốn không. Năm ấm không thật có. Chỉ vì vọng tưởng chấp trước, nên mến yêu ràng rịt thế gian huyễn pháp. Đắm đuối không nhận ra bốn đại vốn không, nên sanh tử không thể dứt. Nếu trong một niệm chẳng khởi sanh diệt thì không cần học Phật pháp. Khi ấy lo gì sanh tử không dứt được! Vì vậy, pháp trong tông môn giống như ánh sáng mặt trời, chiếu soi khắp mười phương thế giới.

Xưa kia, tổ Đức Sơn, người Giản Châu, tỉnh Sơn Tây, tên tục là Chu. Năm hai mươi tuổi, xuất gia, thọ giới cụ túc. Ngài tinh tấn nghiên cứu tạng luật, cùng các kinh tánh tướng, nên quán thông được chỉ thú. Ngài thường giảng kinh Kim Cang Bát Nhã. Người thời đó, thường gọi Ngài là Chu Kim Cang. Ngài thường nói với chư vị đồng môn: “Một cọng lông hớp cạn nước biển. Tánh như biển cả, rộng vô cùng. Dệt nơi đầu kim, kim nhọn không động. Học đồng vô học, chỉ mình ta biết.”

Sau nghe thiền tông thịnh hành ở phương Nam, Ngài rất bực túc, bảo: “Người xuất gia, ngàn kiếp học oai nghi Phật, muôn kiếp học tế hạnh Phật, vậy vẫn chưa có thể thành Phật. Bọn quỷ ở phương Nam, dám nói trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật (chỉ rõ tâm chân thật, thấy tánh thành Phật). Ta phải quét sạch hang ổ, diệt hết những loài này, hầu mong báo đền ơn Phật!”

Ngài liền quảy theo bộ ‘Thanh Long sớ Sao’, đi từ Tây Xuyên đến Phong Dương. Giữa đường, gặp một bà lão bán trà. Ngài ghé lại định mua trà uống. Bà lão chỉ tay vào gánh đồ, nói: “Bạch Hòa Thượng! Đó là kinh sách gì vậy?”

Ngài đáp: “Là bộ Thanh Long Sớ Sao.”

Bà hỏi: “Bạch Hòa Thượng! Vậy sớ sao đó giảng về kinh gì vậy?”

Ngài đáp: “Giảng kinh Kim Cang.”

Bà nói: “Con có câu hỏi, nếu Ngài trả lời được thì xin cúng dường trà điểm tâm, còn nếu không trả lời được thì xin hãy đi nơi khác. Kinh Kim Cang nói: ‘Quá khứ, tâm không thể được. Hiện tại, tâm không thể được. Vị lai, tâm không thể được.’ Vậy theo Ngài, kinh chỉ vào tâm nào?”

Ngài không lời đối đáp, liền bỏ đi đến Long Đàm. Khi vào pháp đường, Ngài hỏi: “Đã lâu nghe danh Long Đàm. Nay đến đây, chẳng thấy Đàm (ao đầm), cùng không thấy Long (rồng) đâu cả.”

Nghe thế, Long Đàm bước ra, nói: “Ông đã đến Long Đàm rồi!”

Đức Sơn không trả lời được, liền ở lại chùa.

Đêm nọ, lúc đang đứng hầu, Long Đàm bảo: “Đã khuya rồi, sao ông không về phòng nghỉ?”

Đức Sơn liền trịnh trọng bước ra ngoài, nhưng lại trở vào, nói: “Bên ngoài trời tối om!”

Long Đàm mồi một ngọn đèn rồi đưa cho Đức Sơn. Đức Sơn định lấy ngọn đèn, nhưng Long Đàm liền thổi tắt. Ngay khi đó, Đức Sơn lập tức đại ngộ, vội quỳ xuống lễ lạy. Long Đàm bảo: “Ông thấy đạo lý gì mà lễ lạy ta?”

Đức Sơn đáp: “Từ nay, không còn dám nghi đầu lưỡi của các lão hòa thượng trong thiên hạ nũa.”

Hôm sau, Long Đàm lên tòa bảo đại chúng: “Trong đây có một người, răng bén như lưỡi kiếm, miệng như bồn máu, bị ăn gậy mà không xoay đầu. Sau này một mình lên núi, lập đạo của ta.”

Đức Sơn liền lấy bộ ‘Thanh Long Sớ Sao’ ra trước pháp đường, nổi lửa mà đốt, nói: “Các lời huyền biện, như lông mi trong hư không. Tận hết căn cơ thế nhân, như một giọt nước, ném vào biển cả.”

Nói xong, Ngài lễ bái rồi bỏ đi, thẳng đến núi Qui Sơn, nách kẹp hành lý, lên tận pháp đường, đi từ hướng tây qua hướng đông, lại từ hướng đông qua hướng tây, rồi xoay lại nói với ngài Phương Trượng (tức tổ Quy Sơn Linh Hựu): “Có chi không! Có chi không!”

Tổ Quy Sơn ngồi trên tòa, chẳng thèm trả lời. Đức Sơn nói tiếp: “Không, không!”, rồi bỏ đi.

Ra đến ngoài cửa, Đức Sơn tự bảo: “Tuy là thế, phải nên cẩn thận!”

Đức Sơn liền chỉnh đốn oai nghi, trở vào pháp đường, trải tọa cụ, thưa: “Bạch Hòa Thượng!”

Tổ Quy Sơn định lấy chổi, Đức Sơn liền la lên, rồi đi ra ngoài pháp đường. Tối đến, tổ Quy Sơn hỏi thầy thủ tọa: “Người mới đến hôm nay, còn ở lại không?”

Thầy thủ tọa đáp: “Bạch Hòa Thượng! Khi mang đôi dép cỏ ra khỏi pháp đường thì ông ta bỏ đi mất.”

Tổ Quy Sơn bảo: “Kẻ này, mai đây một mình sẽ lên tận đỉnh núi, kết am khô, mạ Phật báng Tổ!”

Ngài Đức Sơn qua Lịch Dương ở ba mươi năm. Gặp lúc vua Đường Võ Tông đang phá diệt Phật giáo, Ngài lánh nạn ẩn tu trong hang núi Độc Phù. Đầu niên hiệu Đại Trung, thái thú Võ Lục là Tiết Đình Vọng, sửa lại tịnh xá Đức Sơn, hiệu thiền viện Cổ Đức, định tìm cầu một vị tài đức về trụ trì. Nghe đạo hạnh Đức Sơn, ông liền đến thỉnh mời, nhưng Ngài không thèm xuống núi. Tiết Đình Vọng bày mưu là phao du Ngài giữ trà muối trái phép, phạm luật pháp triều đình, nên sai lính bắt Ngài về huyện đường. Khi đến, ông liền lễ bái, cầu thỉnh Ngài ở lại xiển dương tông phong.

Người đời sau thường bảo: “Đức Sơn la. Lâm Tế đánh.”

Nếu theo gương hai ngài, Đức Sơn và Lâm Tế, chúng ta lo gì không ngưng được sanh tử.

Sau ngài Đức Sơn là Nham Đầu. Sau Nham Đầu là Vân Phong. Sau Vân Phong là Vân Môn, Pháp Nhãn, lại đến quốc sư Đức Thiều, tổ Vĩnh Minh, v.v… Tất cả đều tù gậy ngài Đức Sơn mà ra. Phật pháp từ các triều đại quân chủ cho đến nay, đều do chư đại tổ sư trong tông môn chống giữ. Chư vị đả thất nơi đây, đều hiểu rõ đạo lý cao siêu, thì việc đi thẳng vào đất tâm, giải thoát vòng sanh tử, không khó cho lắm. Nhưng nếu đùa cợt, không dụng công chân thật, từ sáng đến tối, cứ mang mãi bóng hình quỷ ma, hay đào sâu hố văn tự, thì đừng trách tại sao không cắt được sanh tử. Mọi người hãy nên nỗ lực tinh tấn dụng công.

Ngày thứ tư:

Bốn ngày thiền thất đã trôi qua. Chư vị đều tinh tấn dụng công, lại trình kệ lên, cầu tôi ấn chứng. Việc này thật rất khó làm. Nhưng chư vị chắc đã quên lời tôi giảng trong hai ngày trước. Tối hôm qua tôi có nói: “Tu hành không đường nào khác, cần thiết là phải biết đường về.”

Hiện tại, tham khán thoại đầu, là việc mà chúng ta phải theo sát. Mục đích tu hành của chúng ta là thành Phật, cắt đứt dòng sanh tử. Muốn cắt đứt sanh tử, phải dùng câu thoại đầu như bảo kiếm vương Kim Cang. Ma đến giết ma. Phật đến giết Phật. Không chút tình lưu luyến. Không pháp để lập. Nếu thế, còn đâu vọng tưởng để làm thơ làm kệ, thấy hư không thấy ánh sáng, thấy cảnh giới này, cảnh giới nọ ư? Dụng công như thế, tôi không biết thoại đầu của chư vị đi đâu rồi!

Người tu hành lâu năm, chính yếu chuyên cần tham khán chứ không phải dùng lời. Người mới phát tâm tu đạo hãy chú ý điểm này!

Vì sợ chư vị không biết cách dụng công, nên tôi mới giảng rõ duyên khởi của thiền thất, giá trị tu hành trong tông môn, và cách thức dụng công, qua hai ngày liền. Pháp dụng công của chúng ta, đơn giản là chỉ đề cử câu thoại đầu. Sáu thời, từ sáng đến tối, như dòng nước chảy, đừng để gián đoạn. Phải minh mẫn, nhận biết rõ ràng, chớ nên mê muội. Tất cả tình cảm phàm phu hay pháp giải thoát của chư Thánh, hãy vung đao chặt hết.

Người xưa bảo:

“Học đạo như giữ cấm thành
Giữ chặt dầu trả giá cao
Không chịu trời lạnh thấu cốt xương
Hương thơm hoa mai sao phát được!”

Đó là kệ của thiền sư Hoàng Bích. Bốn câu kệ này có hai ý nghĩa. Hai câu đầu nói rằng học đạo như giữ cấm thành. Giữ thành trì nghiêm mật, chặt chẻ, không khiêng nể ai, luôn cấm ngặt ra vào.

Trong mỗi chúng ta đều có một tâm vương. Tâm vương tức là thức thứ tám, lại có thức thứ bảy, thứ sáu, thứ năm v.v… Năm thức trước là mắt tai mũi lưỡi thân ý. Thức thứ sáu tức là thằng giặc ý thức. Thức thứ bảy là mạt na thức. Từ sáng đến tối, nó nhận lấy kiến phần của thức thứ tám làm bản ngã, rồi dẫn khởi thức thứ sáu, khiến thức này thống lãnh năm thức trước tham đắm vào các trần cảnh của sắc thanh hương vị xúc pháp. Nếu không đoạn được triền phược của mê hoặc thì tâm vương, tức thức thứ tám, bị trói chặt đến chết. Sau khi chết, thức thứ tám lại chuyển qua thân đời kế.

Thế nên, hôm nay chúng ta bắt buộc phải dùng câu thoại đầu, tức bảo kiếm Kim Cang, để giết những tên giặc này, hòng giúp thức tám chuyển thành ‘Đại Viên Cảnh Trí’, thức thứ bảy thành ‘Bình Đẳng Tánh Trí’, thức thứ sáu thành ‘Diệu Quang Sắc Trí’. Năm thức trước chuyển thành “Thành Sở Tác Trí’. Nhưng điều khẩn thiết là phải chuyển thức thứ sáu và thứ bảy, vì chúng nắm vai trò lãnh đạo.

Hôm nay, chúng ta phải dùng câu thoại đầu để chuyển thức ‘Phân Biệt’ thành ‘Diệu Quang Sắc Trí’. Chuyển tâm so đo phân biệt mình người thành ‘Bình Đẳng Tánh Trí’. Đó cũng gọi là chuyển thức thành trí, chuyển phàm thành Thánh. Không để cho sáu tên giặc, sắc thanh hương vị xúc pháp xâm phạm ‘Cấm Thành’.

Hai câu sau, ‘không chịu trời lạnh thấu cốt xương, hương thơm hoa mai sao phát được’, cũng là ví dụ. Chúng sanh đang lặn hụp trong biển sanh tử luân hồi ở ba cõi, bị năm món dục lạc trói buộc, bị trần lao làm mê mờ, không thể giải thoát. Nay, nói đến ví dụ về hoa mai. Hoa mai là loại hoa nở vào mùa đông giá lạnh. Muôn vật trên thế gian, đều sinh trong mùa xuân, trưởng dưỡng trong mùa hạ, tàn rụi trong mùa thu, khô chết trong mùa đông. Trong mùa đông, hầu hết cây cỏ côn trùng đều bị khí lạnh làm chết, khô kiệt. Tuyết đóng trên đất nên bụi không bay được. Côn trùng, cây cỏ, tro bụi được ví như vọng tưởng phân biệt, vô minh, phiền não, ghen ghét v.v… Chúng ta nếu quét sạch hết chúng ra thì tâm vương tức tự tánh, tự nhiên hiển hiện. Giống như hoa mai nở bông rộn rã trong mùa đông giá lạnh. Thật vậy, chư vị phải biết rằng, hoa mai nở bông trong mùa đông lạnh giá chớ không nở trong tiết xuân ấm áp, tràn đầy ánh nắng hồng. Hoa tâm khai nở không phải ở nơi vui buồn, thương ghét, hay đúng sai giữa mình và người. Nếu chúng ta mê muội vì những tâm thức triền phược thì tâm tánh sẽ thành vô ký. Nếu tạo nghiệp xấu thì thành tánh xấu. Nếu tạo nghiệp lành thì thành tánh lành.

Có hai loại vô ký là vô ký trong mộng và vô ký không vọng. Vô ký trong mộng tức lúc hôn trầm mê mộng. Trong mộng có cảnh huyễn. Ban ngày làm những việc mà không chú ý đến. Đó là ý thức vô ký.

Chúng ta đang ngồi tọa hương mà bỏ mất câu thoại đầu, lạc vào trống không, mê mê mờ mờ, không biết chi hết, hay chỉ tham đắm cảnh giới tịch tĩnh. Thế nên, lúc dụng công, bị lạc vào thiền bịnh. Đó gọi là vô ký không vọng. Việc cần thiết là trong hai mươi sáu thời, luôn khởi câu thoại đầu, linh linh bất muội (sáng suốt, không mê), liễu liễu thường tri (rõ ràng thường biết). Đi cũng như thế. Ngồi thiền cũng như thế. Cổ nhân nói: “Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, dứt hết ngôn từ lời nói, thể động và tịnh đều an nhiên!”

Tổ Hàn Sơn bảo:

“Trên đỉnh núi cao,
>Bốn bề rộng vô ngần
Tĩnh tọa không người biết
>Ánh trăng lặng lẽ,
Chiếu thấu suối ngàn
Suối trong không trăng
Trăng nơi trời xanh
>Ngâm nga thơ kệ
Thơ chẳng phải thiền.”

Vì duyên lành với nhau, nên tôi mới nói ra những điều này. Hy vọng mọi người nỗ lực tinh tấn, không nên dụng tâm tán loạn. Tôi sẽ đưa ra một công án nữa.

Xưa kia, tổ khai sơn, lập chùa Tất Đàn tại núi Kê Túc, xuất gia xong, Ngài đi đó đây tham thiền học đạo, rất mực tinh tấn dụng công. Ngày nọ, Ngài ghé qua một quán trọ, nghe cô gái trong quán bán đậu hủ ngâm thơ: “Trương đậu hủ, Lý đậu hủ. Đầu trên gối, nghĩ muôn ngàn chuyện. Sáng mai cũng vẫn bán đậu hủ.”

Ngay trong lúc đang ngồi thiền tĩnh tọa, nghe cô bán đậu hủ ca ngâm như thế, Ngài liền ngộ đạo. Vì vậy, thấy rõ người xưa, không phải là ở thiền đường mới dụng công, khai ngộ được. Dụng công tu hành, quý tại nhất tâm. Chư vị chớ phân tâm tán loạn, khiến thời gian trôi qua vô ích. Nếu thế, ngày mai vẫn phải bán đậu hủ.

Ngày thứ năm:

Phương pháp tu hành, nói dễ thì cũng rất dễ, còn nói khó thì cũng rất khó. Nói dễ nghĩa là chư vị chỉ cần xả bỏ tất cả, có lòng tin chắc thật, phát tâm kiên cố, lâu dài, thì mới thành công được.

Nói khó tức là vì chúng ta sợ khổ, muốn hưởng sung sướng an lạc. Nên nhớ rằng muốn thành công trong bất cứ nghề nghiệp nào trên thế gian, thì phải trải qua quá trình học tập, rèn luyện. Huống hồ chi nói đến việc học pháp thánh hiền, để mong thành Phật thành Tổ. Cứ dễ duôi thì làm sao thành công được? Thế nên, điều thứ nhất là phải có tâm kiên cố, vì người tu hành học đạo, không thể tránh khỏi ma chướng. Ma chướng là cảnh nghiệp trần lao như màu sắc, âm thanh, mùi hương, mùi vị, xúc chạm, pháp trần, mà tôi đã nói đến tối hôm qua. Nghiệp cảnh này là oan gia sinh tử của chúng ta. Đó là nguyên nhân mà nhiều vị pháp sư giảng kinh, vì không nắm vững điểm này, nên đạo tâm không kiên cố.

Kế đến, phải phát tâm tu hành dài lâu. Trên thế gian, chúng ta tạo nghiệp vô số. Khi bắt đầu tu hành, muốn thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, có thể nào xả bỏ được hết tập khí xấu xa trong một lần được đâu?

Như tổ Trường Khánh xưa kia, ngồi rách cả bảy chiếc bồ đoàn. Tổ Triệu Châu, năm tám mươi tuổi, ra ngoài hành cước học đạo. Bốn mươi năm tham khán một chữ vô, dụng tâm không tán loạn, sau đó mới đại triệt đại ngộ. Vô Vương cùng Triệu Vương rất sùng bái Ngài, nên thường đến cúng dường. Đến đời Thanh, hoàng đế Ung Chánh, khi xem duyệt lại ngữ lục cao siêu của Ngài, liền ban hiệu ‘Cổ Phật’. Đấy là do cả đời tu hành khổ nhọc, mới thành công được. Ngay đây, chúng ta nếu xả bỏ hết mọi tập khí xấu xa, lắng đọng thân tâm, liền bằng Phật Tổ không khác.

Kinh Lăng Nghiêm nói:

“Như lọc lấy nước
Giữ nước trong lành
Nước tịnh không động
Cát đá tự chìm
Nước trong liền hiện
Tức nhiếp khách trần
Lọc cát đá ra
Chỉ còn nước trong.”

Phiền não tập khí, ví như các đá, vì vậy mới dùng thoại đầu. Thoại đầu như lưới lọc cát, khiến nước trong sạch. Người dụng công, nếu đạt đến chỗ thân tâm nhất như, tức cảnh tịnh xuất hiện, thì phải chú ý, chớ dừng lại mà không tiến bước. Nên hiểu rằng đó chỉ là cảnh giới thô thiển, phiền não vô minh chưa đoạn hết. Lúc ấy, tâm phiền não đã chuyển thành tâm thanh tịnh, như cát bụi lóng thì nước trong. Tuy vậy, dưới đáy nước, cát bụi vẫn còn, chưa được lọc ra, cần phải gia công thêm nữa. Cổ nhân nói: “Người ngồi trên đỉnh cột trụ trăm thước, tuy thấy mà không thật thấy. Nếu tiến thêm một bước nữa thì mười phương thế giới liền hiển hiện!”

Nếu không tiến thêm một bước nữa, thì chỉ nhận ‘HóaThành’ làm nhà. Phiền não vẫn còn cơ hội sanh khởi. Nếu thế, muốn tự mình giác ngộ, cũng rất khó lắm. Vì vậy, phải lọc cát bụi, giữ nước trong, mới mong đoạn hẳn cội gốc vô minh mà thành Phật Tổ. Sau khi cắt đứt gốc rễ vô minh, tùy thời mà hiện thân thuyết pháp khắp mười phương.

Như Bồ Tát Quán Ấm, hiện ba mươi hai ứng thân. Nếu người nào muốn hiện thân gì để được độ thoát, Ngài sẽ vì họ mà hiện ra thân đó để thuyết pháp. Tự do tự tại, qua lại nơi thanh lâu tửu điếm, thai trâu thai bò, thiên đường địa ngục, không bị trói buộc. Ngược lại, một niệm phân biệt khởi lên, thì luân hồi mãi trong sáu đường. Thuở xưa, đời trước của Tần Tăng thường cúng dường tượng Địa Tạng với hương hoa đèn đuốc, nên mới được quả báo thiện lành. Nhưng vì không phát tâm tu hành dài lâu, lại phiền não vô minh chưa đoạn hết, nên đời nay mới bị tâm sân tổn hại, khiến đọa lạc.

Nếu tín tâm kiên cố, không thối thất, bền bỉ tu hành, dầu chư vị là ai đi nữa, thì chắc chắn sẽ thành Phật.

Xưa kia, có người nghèo, xuất gia tại một ngôi chùa thuộc tỉnh Chương Châu, rất thật tâm tu hành, không biết khổ nhọc, không hỏi đạo với ai, ngày ngày đều khổ công làm lụng. Ngày nọ, có một vị tăng hành cước, ghé lại tạm trú nơi chùa. Vị khách tăng thấy Thầy làm lụng vất vả, bận rộn cả ngày, nên hỏi việc dụng công tu đạo hằng ngày như thế nào. Thầy đáp:

“Mỗi ngày con đều làm việc khổ nhọc. Xin thỉnh Ngài dạy phương pháp tu hành.”

Khách tăng đáp: “Hãy tham khán công án ‘Ai là người đang niệm Phật’.”

Thể theo lời dạy của vị khách tăng, ngày ngày trong lúc làm việc, Thầy luôn xoay lại, nhìn vào chữ ‘Ai’. Sau này, Thầy vào núi thẳm rừng sâu tu hành, ăn đọt tùng uống nước suối, mặc áo rơm. Bấy giờ, cha mẹ chị em ở nhà, biết Thầy tu hành khổ hạnh nơi núi sâu rừng thẳm. Người mẹ liền bảo cô chị đem một cuộn vải cùng thức ăn đến cho Thầy. Cô chị đến núi, thấy Thầy đang ngồi thiền trong hang sâu, liền đến lắc vai, nhưng thân Thầy không lay động. Cô kêu to lên, nhưng Thầy vẫn không đáp lời. Tức giận, cô để lại tất cả đồ đạc, rồi trở về nhà. Thầy không một lời hỏi thăm gia đình, cứ mãi ngồi thiền trong hang động. Mười ba năm sau, người chị lại đến thăm, thấy cuộn vải khi trước, cũng để ngay tại chỗ xưa, chưa động đậy gì. Sau này, có người chạy lánh nạn ngang qua đó, bị đói khát, thấy Thầy đang ngồi thiền, liền tiến vào hang, xin đồ ăn. Thầy liền đi vào trong hang sâu, lấy ra vài thỏi đá, bỏ vào nồi nấu, rồi mang ra, cùng ăn với người khách lạc đường, như ăn khoai vậy. Ắn xong, trước khi khách đi, Thầy có dặn: “Xin đừng kể về buổi ăn này cho người ngoài biết.”

Thời gian sau, vì nghĩ rằng trụ trong núi đã lâu, Thầy muốn ra ngoài để kết duyên pháp. Do đó, Thầy đi Hạ Môn, cất lều tranh, bán nước trà cho khách qua đường. Bấy giờ là đời vua Vạn Lịch (1573-1689). Hoàng Thái Hậu (tức mẹ vua), vừa mới qua đời, nên nhà vua thỉnh mời chư cao tăng đến hoàng cung, làm lễ cầu nguyện cho mẹ ông. Mới đầu, nhà vua định thỉnh tăng chúng ở kinh đô, nhưng vì không có vị cao tăng nào cả. Lại thêm, Hoàng Thái Hậu báo mộng cho biết là tại Chương Châu, tỉnh Phước Kiến, có một vị cao tăng. Vì vậy, nhà vua phái quan quân đến Chương Châu, cung thỉnh tất cả chư tăng về kinh đô, lập đàn tràng cầu siêu. Thế nên, tăng chúng Chương Châu đều lục đục, kéo nhau lên kinh đô. Khi chư tăng đi ngang qua quán trà, Thầy liền hỏi thăm nguyên do. Chư tăng đáp: “Hiện tại, chúng tôi phụng theo chiếu chỉ nhà vua, lên kinh đô, lập đàn tràng cầu siêu độ cho Hoàng Thái Hậu.”

Thầy hỏi: “Bạch chư Hòa Thượng! Vậy con có thể cùng đi với các Ngài được không?”

Chư tăng đáp: “Điệu bộ ông lôi thôi, xốc xếch, làm sao theo chúng tôi được.”

Thầy nói: “Con không biết tụng kinh, nhưng có thể mang hành lý giùm các Ngài.”

Chư tăng nhận lời, đưa hành lý cho Thầy mang, rồi cùng nhau lên kinh đô. Khi ấy, Hoàng Đế biết chư tăng tại Chương Châu đang trên đường đến kinh đô, nên bảo người chôn giấu một bộ kinh Kim Cang dưới cổng kinh thành. Các vị tăng Chương Châu không hay biết. Người người đều bước qua cổng thành, nhưng trừ Thầy. Thầy quỳ xuống, chấp tay, không dám bước qua. Mặc dầu quân lính giữ cổng thành, kêu réo, nhưng Thầy vẫn không đi. Sau khi quan quân tấu trình sự việc, Hoàng Đế rất vui mừng, biết thánh tăng đã đến. Lại sai người ra hỏi: “Hòa Thượng đã đến, sao không vào kinh thành?”

Thầy đáp: “Dưới đất có kinh Kim Cang, nên tôi không dám bước qua.”

Lại hỏi: “Tại sao Hòa Thượng không đích thân mà vào thành?”

Nghe thế, Thầy liền chống hai tay xuống đất, đưa chân lên trời, rồi đi vào thành. Hoàng Đế cung kính tột bực. Lại hỏi Thầy cách lập đàn tràng cầu siêu. Thầy đáp: “Canh năm sáng mai, kiến lập một đài cao, cắm một cây phướn, đốt một ngọn đèn, dâng một đĩa trái cây để cúng dường chư Phật là đủ.”

Hoàng Đế nghe vậy, lòng không vui, vì đàn lễ không long trọng. Lại sợ Thầy không có đạo đức, nên cho hai cung nữ đến hầu hạ, tắm cho Thầy. Thân tâm Thầy vẫn không động khi được hai cung nữ đến tắm cho mình. Cung nữ tấu trình Hoàng Đế. Nghe thế, Hoàng Đế lại tăng thêm sự cung kính, biết Thầy thật là một vị thánh tăng, nên theo lời mà kiến lập đàn tràng. Hôm sau, Thầy lên tòa thuyết pháp, đăng đàn làm lễ, tay phất cây phướn trước quan tài Hoàng Thái Hậu mà nói:

“Cái ta vốn không đến từ đâu,
Bà chớ có đắm đuối,
Một niệm không sanh,
Siêu thăng cõi trời!”

Làm Phật sự xong, Thầy bảo Hoàng Đế: “Xin chúc mừng! Hoàng Thái Hậu đã được siêu thăng!”

Hoàng Đế rất đỗi nghi ngờ, vì sợ làm đàn tràng quá đơn sơ như thế thì công đức chưa đủ. Đang khởi tâm nghi như thế, thì trên hư không có tiếng của Hoàng Thái Hậu: “Hoàng Đế! Hãy cám ơn Thánh tăng. Mẹ đã được siêu thăng rồi!”

Nghe thế, Hoàng Đế vùa sợ vừa mừng, cúi mình lễ bái tạ ơn, rồi thiết lễ trai tăng cúng dường.

Thầy thấy Hoàng Đế mặc quần thêu hoa gấm, nên mắt chăm chăm nhìn. Thấy vậy, Hoàng Đế thưa: “Bạch Đại Đức! Ngài muốn vật này à?”

Nói xong, Hoàng Đế liền tặng cho Thầy quần gấm đó. Thầy nói: “Cám ơn Ngài.”

Hoàng Đế ban hiệu Thầy là ‘Quốc Sư Long Khố’.

Thọ trai xong, Hoàng Đế dẫn Thầy đến vườn hoa du ngoạn. Trong vườn có một bảo tháp. Thầy vừa thấy thì tâm rất vui mừng, đi đến xem coi. Hoàng Đế thưa: “Bạch Quốc Sư! Ngài muốn tháp này à?”

Thầy đáp: “Tháp này tuyệt đẹp!”

Hoàng Đế thưa: “Bạch Quốc Sư! Con có thể cúng dường Ngài ngôi bảo tháp này.”

Nói xong, Hoàng Đế liền sai người mang bảo tháp về Chương Châu. Thầy liền bảo: “Không cần nhờ người mang. Tự tôi đem về được.”

Nói xong, Thầy liền bỏ tháp vào trong tay áo, rồi bay lên hư không, biến mất. Hoàng Đế kinh hãi, run sợ, vui mừng, tán thán việc chưa từng có.

Chư vị! Hãy nhìn lại câu chuyện này. Kể từ khi xuất gia, Thầy chưa từng dụng công tán loạn, đạo tâm luôn kiên cố. Người chị đến thăm, Thầy vẫn không màng. Y phục rách nát, Thầy vẫn không quản. Cuộn vải để trong hang mười ba năm mà không động đến. Chúng ta hãy tự hỏi chính mình, công phu có được như thế không? Chỉ nói trong một ngày một đêm, giả như có chị mình đến thăm, thì tâm có động hay không? Lại nữa, trong lúc chỉ tịnh, thấy thầy giám hương đi đốt hương, hay người khác đang động đang tịnh, liền giương đôi mắt nhìn. Dụng công như vầy, đến khi nào mới thành thục! Chư vị chỉ thiết yếu lọc bỏ bùn cát, thì nước trong tụ nhiên hiện ra. Chư vị hãy đề khởi thoại đầu lên!

Ngày thứ sáu:

Cổ nhân nói: “Ngày tháng qua mau như thoi đưa, thời gian vùn vụt trôi như tên bắn.”

Đả thiền thất, đến ngày mai là xong. Theo quy củ, sáng mai sẽ có tra khảo. Vì đả thất là cách thức khắc kỳ thủ chứng. Chứng nghĩa là chứng ngộ, tức thấy tận bổn địa phong quang, hay ngộ đến Như Lai Diệu tánh. Đó gọi là chứng ngộ. Vì muốn biết trình độ công phu của chư vị trong bảy ngày, nên mới tra khảo, xem xét. Chư vị phải đối trước đại chúng mà thưa bạch rõ ràng những điều mình chứng biết. Khi đó, gọi là thâu nhặt tiền vé của tất cả mọi người. Nói cách khác, chúng ta tham gia đả thiền thất, nghĩa là ai ai cũng có thể khai ngộ, hoằng dương Phật pháp, cứu độ chúng sanh. Hiện tại, không cần nói rằng ai ai cũng đều khai ngộ, nếu chỉ có một người khai ngộ thôi, thì cũng thâu được tiền vé. Nghĩa là, một người trả tiền ăn cho mọi người. Nếu chúng ta phát khởi đạo tâm tinh tấn, thì ai ai cũng đều khai ngộ. Cổ nhân nói: “Phàm phu thành Phật rất dễ. Dẹp trừ vọng tưởng lại rất khó.”

Từ vô thủy đến nay, chúng ta tham lam ái nhiễm, chấp trước nặng nề, nên mới bị lưu chuyển trong vòng sanh tử. Tám muôn bốn ngàn trần lao, bao loại tập khí xả bỏ không nỗi, thì không thể ngộ đạo. Khác hẳn với chư Phật, chư Bồ Tát, những bậc thường giác không mê. Do đó đại sư Liên Trì nói:

“Nhiễm duyên rất dễ,
Đạo nghiệp khó thành,
Không thấy việc trước mắt
Muôn duyên sai biệt
Xem cảnh như gió thổi ào ào
Phá hoại rừng công đức
Lửa tâm cháy phừng phừng,
Đốt rụi hạt bồ đề,
Đạo tâm nếu đồng tình tâm
Thành Phật rất dễ dàng
Nếu đối đãi chúng sanh như đối đãi ta,
Việc của mình và người,
Không thấy mình khác người
Tự nhiên trên cung dưới kính
Phật pháp luôn luôn hiện
Chặt đứt trần lao khổ não!”

Mười câu kệ trên, nói rõ đạo lý chân thật! Nhiễm, tức nhiễm ô. Phàm phu đều tham tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, lợi lộc, lại luôn khởi tâm sân hận, gây chiến tranh. Đối với hai chữ ‘Đạo Đức’, như chân bị đá buộc. Từ sáng đến tối, vui buồn giận tức, thương mến, ghen ghét, tham lam, ái nhiễm phú quý, vinh hoa. Không đoạn bao loại thế tình. Không nghĩ nhớ gì về đạo. Thế nên, rừng công đức bị phá. Hạt bồ đề bị đốt rụi. Nếu nhạt nhẻo với thế tình, tất cả bè bạn hay oan gia đều đối xử bình đẳng, xem mọi chúng sanh đều đồng nhau không khác, xem người đói như mình đói, nhìn người chìm như mình chìm, không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói láo, không uống rượu, thường phát tâm bồ đề, thì mới có thể tương ưng cùng đạo, chắc chắn sẽ thành Phật. Thế nên: “Đạo tâm nếu đồng tình tâm, thành Phật rất dễ dàng.”

Chư Phật thánh hiền, ứng hóa thế gian, trong mọi việc làm, đều vì lợi ích chúng sanh. Vì thế nói rằng cứu khổ, ban an lạc, khởi tâm từ, tế độ muôn vật. Nếu chúng ta tự kiềm chế, nhã nhặn, khiêm tốn, trong mọi việc làm đều không vì mục đích hưởng thụ cá nhân, thì người người đều không khổ nhọc, và việc làm gì đều cũng thành công. Đồng thời, quả báo chơn thật thù thắng cũng được viên mãn tròn đầy, như thuyền nhấp nhô lên xuống đồng với mực nước. Nếu dùng tâm cung kính mà đối đãi người, không tụ cao tự đại, không kiêu ngạo giả dối, thì khi gặp nhau, người khác nhất định sẽ có tâm cung kính tôn trọng mình. Ngược lại, nếu chỉ cậy vào tài năng, nộ khí tung hoành ngang dọc, hoặc miệng trái với tâm, luôn vì âm thanh sắc tướng, danh lợi mà lập chước, mong mỏi người kính mình, thì không thể được. Khổng Tử nói: “Cung kính người, người hằng cung kính mình. Thương mến người, người hằng cung kính mình.

Lục Tổ Huệ Năng bảo: “Người lỗi ta không lỗi, lỗi ta quá hơn người.”

Thế nên, chúng ta hãy chặt đứt tâm đúng sai, mình người khác biệt. Như chư Phật Bồ Tát, làm mọi việc luôn vì lợi ích chúng sanh, nên thời thời thường gặt hái quả báo thiện lành. Nếu làm được như thế thì phiền não không thể trói buộc.

Đức Thế Tôn thuyết ba tạng kinh điển, mười hai phần giáo, chỉ vì muốn cứu giúp chúng ta cắt đứt ba độc, tham lam, sân hận, si mê, mà tu hành giới định huệ, phát khởi tâm từ bi hỷ xả, thực hành lục độ vạn hạnh, viên mãn đức tướng trí huệ, trang nghiêm pháp thân công đức. Nếu nương theo trên mà hành, thì nơi nơi đều biến thành thế giới Hoa Tạng.

Hôm nay tham gia đả thất, đa số là chư vị đại đức cùng người tại gia. Chúng ta nên cố gắng hàng phục tâm mình, mau chóng rời xa triền phược. Tôi sẽ nói thêm một công án nữa. Mong rằng những ai đã phát tín tâm tu hành, sẽ đạt được bảo vật. Nếu không thì chư vị tự cô phụ tín tâm của mình, đi về tay không. Hy vọng mọi người hãy lắng nghe.

Xưa, đời Đường, có cư sĩ họ Bàng tên Uẩn, tự Đạo Huyền, người Hàng Xung, tỉnh Hồ Nam, vốn theo nghiệp nhà Nho, liễu ngộ trần lao khốn khổ, chí cầu đạo chân đế. Năm Trinh Quán nguyên niên, nghe đạo phong của hòa thượng Thạch Đầu, nên ông đến bái kiến.

Ông hỏi: “Người không cùng muôn pháp làm bạn là ai?”

Hòa thượng Thạch Đầu liền lấy tay che miệng ông. Ông liền hoát nhiên nhận ra yếu chỉ. Ngày nọ, ngài Thạch Đầu hỏi ông: “Từ khi gặp lão tăng cho đến nay, hằng ngày con làm những gì?”

Ông đáp: “Nếu hỏi việc hằng ngày, tức môi miệng không có chỗ mở.”

Nói xong, ông liền trình kệ:

“Hằng ngày làm không khác
Chỉ mình hòa với chúng
Nơi nơi không chấp xả
Chốn chốn không tiếp thừa
Sao phân chia đỏ tím
Núi xanh chẳng chút bụi
Thần thông và diệu dụng
Gánh nước cùng hái củi.”

Ngài Thạch Đầu chấp nhận, nói: “Con muốn làm tăng hay tục?”

Ông đáp: “Bạch Hòa Thượng! Con muốn làm những gì con thích!”.

Ông không xuống tóc xuất gia.

Sau, ông đến tham vấn Mã Tổ: “Bạch Hòa Thượng! Người không cùng muôn pháp làm bạn là ai?”

Mã Tổ đáp: “Đợi ông hớp cạn nước ngàn sông, ta sẽ chỉ bày.”

Nghe thế, ông liền lãnh hội yếu chỉ, nên ở lại học hỏi về ngôn giáo. Từ khi hiểu rõ nguồn tâm, ông không màng việc thế gian, chỉ đan giỏ tre sống qua ngày. Trong nhà có mười ngàn lượng vàng bạc, ông liệng hết xuống sông Trường Giang. Hôm nọ, đang cùng bà vợ bàn về lý vô sanh, ông bảo: “Khó! Khó! Khó! Đem nấm để trên đỉnh cây thật khó!”

Bà vợ nói: “Dễ! Dễ! Dễ! Ý Tổ Sư trên trăm đầu ngọn cỏ.”

Con ông là cô Linh Chiếu nghe thế liền đáp: “Hai ông bà già, sao lại nói như thế!”

Ông hỏi: “Vậy con nói như thế nào?”

Cô đáp: “Không khó cũng không dễ. Đói thì ăn. Mệt ngủ khò!”

Ông liền vỗ tay, nói: “Con trai không lấy vợ. Con gái không lấy chồng. Cả nhà thuyết vô sanh!”

Từ đó, danh tiếng của ông vang rộng khắp nơi.

Khi từ biệt đại chúng, ngài Lạc Sơn bảo mười vị thiền khách tiển ông ra cổng. Đến cổng, ông lấy tay chỉ tuyết rơi trên không trung, nói: “Từng mảnh tuyết trắng, không bay lạc nơi khác.”

Có thiền khách họ Toàn đáp: “Bay lạc nơi nào?”

Ông liền tát vị thiền khách này một bạt tay. Thiền khách họ Toàn nói: “Không được cẩu thả.”

Ông bảo: “Sao dám xưng là thiền khách. Vua Diêm La không cho Ngài thoát đâu.”

Thiền khách hỏi: “Cư sĩ thường làm gì?”

Ông đáp: “Mắt thấy như mù, miệng nói như câm.”

Ông thường đến các giảng đường nghe giảng kinh. Ngày nọ, vị giảng sư giảng kinh Kim Cang đến đoạn vô ngã vô nhân, ông liền hỏi: “Bạch Tọa Chủ! Nếu nói vô ngã vô nhân, vậy ai đang giảng kinh, ai đang nghe kinh?”

Vị Tọa Chủ không lời đối đáp.

Ông nói: “Tuy là người thế tục, con hiểu yếu chỉ thô thiển đôi chút.”

Tọa Chủ hỏi: “Theo ý cư sĩ thì như thế nào?”

Ông đáp: “Không mình cũng không người. Sao có kẻ thân người sơ! Khuyên Ngài ngồi nghỉ ngơi, đừng đem chân lý cầu chân lý. Tánh Kim Cang Bát Nhã, ngoài không chút trói buộc. Nghe cùng tin nhận, chỉ là trần cảnh, giả danh.”

Nghe thế, vị Tọa Chủ vui mừng khen ngợi ông đáo để.

Một hôm, ông hỏi cô Linh Chiếu: “Cổ nhân nói rằng trên trăm đầu ngọn cỏ, rõ ý tổ sư. Vậy, con hiểu như thế nào?”

Cô Linh Chiếu đáp: “Ông già! Sao nói như thế được?”

Ông hỏi: “Vậy con nói làm sao?”

This entry was posted in Tuyển Chọn. Bookmark the permalink.