Biên Niên Tự Thuật Của Thiền Sư Hư Vân

Dân Quốc năm thứ 42, 114 tuổi. (1953/54)

Cô đáp: “Trên trăm đầu ngọn cỏ, rõ ý tổ sư.”

Ông cười to. Lúc sắp mất, ông bảo cô Linh Chiếu: “Con ra ngoài xem coi mặt trời mọc đúng ngọ chưa.”

Cô Linh Chiếu bước ra ngoài, chốc lát, rồi trở vào, nói: “Mặt trời ở giữa không trung, bị nguyệt thực. Cha bước ra xem.”

Ông tưởng thật, nên bước xuống tòa, đi ra ngoài cửa xem. Khi ấy, cô Linh Chiếu liền leo lên tòa ngồi của cha mình, xếp bằng, chắp tay, rồi thị tịch. Trở vào, thấy con mình đã mất, cười nói: “Con gái ta lanh lợi quá. Nó đi trước ta.”

Sau đó, ông đình lại bảy ngày để lo đám tang con mình. Khi quan Vu Công đến thăm bịnh, ông làm kệ, bảo:

“Chỉ mong dẹp sạch cái có,
Coi chừng những cái không,
Cuộc sống trên thế gian,
Như ảnh tượng và bóng.”

Nói xong, ông đặt đầu lên gối của quan Vu Công mà mất. Theo di chúc, thi thể ông được hỏa táng thành tro, rồi bỏ xuống sông. Bà vợ nghe tin, liền báo cho con trai biết. Cậu trai nghe xong, ngừng làm việc, đứng chống tay trên cán cuốc mà thị tịch, ngay tại đồng ruộng. Bà mẹ thấy thế, cũng tự ẩn mình, biệt dạng.

Chư vị hãy xem, bốn người trong gia đình, đều có thần thông diệu dụng như thế. Họ cũng là cư sĩ, nhưng dụng công rất thâm cao. Thế nên, hiện tại, đừng nói rằng trong cư sĩ không có nhân tài. Còn hai chúng tỳ kheo, tỳ kheo ni, đều đồng như Hư Vân tôi không khác.

Chư vị hãy cố gắng nỗ lực tinh tấn.

Ngày thứ bảy:

Chúc mừng chư vị! Công đức tu hành, đến nay đã hoàn mãn. Chiếu theo quy củ của nhà thiền, những vị đã chứng ngộ, phải bước vào thiền đường để được khảo hạch, như những cuộc khảo thí ở kinh đô. Hôm nay, là ngày tuyên bố thí sinh trúng tuyển. Chúng ta phải nên chúc mừng. Hòa Thượng trụ trì thật là từ bi, quyết định rằng ngày mai sẽ tiếp tục đả thiền thất, để cho chư vị có thể gia công tu hành được mau tiến bộ. Những vị tu hành lâu năm, chắc đều biết rằng đây là nhân duyên thù thắng. Vì vậy, đừng để thời gian trôi qua vô ích. Người phát tâm tu hành, phải biết thân người khó được, sống chết là việc lớn. Nay đã được thân người, lại phải biết rằng Phật pháp khó nghe, thiện tri thức khó gặp. Hôm nay, đích thân chư vị đến núi châu báo, đều phải nên ra sức nỗ lực dụng công. Chớ trở về tay không.

Pháp trong tông môn, tôi đã giảng qua. Từ lúc Thế Tôn cầm cành hoa dạy đại chúng, trải qua bao đời, đường hướng tông môn, được truyền cho đến ngày nay. Tôn giả A Nan, tuy là em Phật, làm thị giả, hầu cận đức Thế Tôn, nhưng vẫn chưa đại triệt đại ngộ. Sau khi Phật nhập niết bàn, chư thánh tăng A La Hán, không cho ngài A Nan tham gia hội kết tập đại tạng kinh điển. Tôn giả Ca Diếp bảo: “Ngài chưa đắc được tâm ấn của đức Thế tôn. Thỉnh Ngài ra ngoài xô ngã cột trụ.”

Nghe thế, tôn giả A Nan liền đại ngộ. Ngài Ca Diếp phó chúc, truyền tâm ấn Như Lai cho ngài A Nan. Như thế, ngài A Nan là vị tổ thứ hai ở Ần Độ. Đời đời tương truyền y bát. Sau đời các tổ Mã Minh, Long Thọ, có lão nhân Bắc Tề ở Thiên Thai, nhân xem luận Trung Quán, phát minh tâm địa, nên lập ra tông Thiên Thai. Khi đó, tông môn được hưng thịnh khắp nơi. Sau này, khi tông Thiên Thai bị suy vi, có quốc sư họ Thiều, qua Cao Ly phiên dịch kinh điển, rồi trở về xiển hưng, chấn chỉnh lại tông phong. Ngài Đạt Ma là vị tổ Ần Độ thứ hai mươi tám, truyền pháp sang Đông Độ, tức là sơ tổ Trung Hoa. Từ ngài Đạt Ma truyền đến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn thì đuốc tâm khai sáng khắp nơi. Dưới Lục Tổ Huệ Năng có bốn mươi ba người khai ngộ. Từ tổ Hành Tư truyền đến tổ Hoài Nhượng, rồi đến Mã Tổ, lại có thêm tám mươi ba vị thiện tri thức. Lúc đó chánh pháp hưng thịnh mạnh mẽ. Quốc vương, đại quan đều cung kính tôn trọng.

Tuy đức Như Lai thuyết pháp rất nhiều, mà giáo chỉ tông môn thù thắng hơn hết. Như pháp môn niệm Phật, cũng do tổ Mã Minh, tổ Long Thọ tán dương. Sau ngài Huệ Viễn, có thiền sư Vĩnh Minh, làm tổ thứ sáu của tông Tịnh Độ. Sau này, có rất nhiều vị thiền sư trong tông môn hoằng dương tông Tịnh Độ.

Pháp Mật Tông, phát triển từ đời thiền sư Nhất Hạnh. Sau đó truyền sang Nhật Bổn. Ở Trung Hoa, từ đó trở đi, không người thừa kế.

Tông Duy Thức do ngài Huyền Trang đề xướng, chẳng bao lâu cũng diệt mất.

Đơn độc, chỉ có tông môn là được truyền thừa lâu dài nhất. Thiên thần quy y, rồng hổ bái phục.

Trong chúng hội tiên nhân có Lữ Động Tân, biệu hiệu Thống Dương, người Kinh Châu, vào đời Đường, thi rớt ba lần, không muốn về nhà. Lúc đi ngang qua một quán rượu ở Trường An, gặp Chung Ly Quyền, dạy cho phép sống lâu không chết. Lữ Đồng Tân y theo đó tu hành. Sau này, phi hành tự tại, đi khắp thiên hạ. Ngày nọ, ông đến chùa Hải Hội ở Lô Sơn, bay lên lầu chuông, đề bốn câu thơ:

“Một ngày an nhàn, thân tự tại
Sáu căn hòa hợp, báo bình an
Đơn điền có vật quý
Ngưng vấn đạo, đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền.”

Sau đó, khi đi qua núi Hoàng Long, biến thành mây ngũ sắc. Vì nghi trong chùa có bậc dị nhân, nên ông vào chùa, gặp lúc ngài Hoàng Long đang ngồi tòa giảng kinh, đánh trống pháp vi diệu. Ông theo đại chúng vào pháp đường nghe pháp. Ngài Hoàng Long nói: “Hôm nay có người đến trộm pháp. Lão tăng sẽ không thuyết pháp.”

Lữ Đồng Tân liền bước ra, đảnh lễ, thưa: “Xin thỉnh Hòa Thượng giải thích cho nghĩa của câu: ‘Trong một hạt gạo, chứa đầy thế giới. Núi sông ngòi rạch đều chảy vào chiếc nồi nhỏ.”

Ngài Hoàng Long nạt: “Con quỷ giữ tử thi.”

Ông đáp: “Nhưng trong bụng có giữ thuốc trường sanh.”

Ngài Hoàng Long nói: “Sống cho tới tám muôn bốn ngàn kiếp, vẫn chỉ lạc vào không vọng, vô ích thôi.”

Bấy giờ, vì quên mất công phu ‘Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền’, Lữ Đồng Tân tức giận dữ dội, vung kiếm đâm thẳng vào ngài Hoàng Long. Ngài Hoàng Long chỉ tay vào kiếm, kiếm tự rơi xuống đất, không thể nhặt lên. Lữ Đồng Tân bèn quỳ xuống, xin sám hối, thỉnh cầu Phật pháp. Ngài Hoàng Long nói: “Để câu ‘Núi sông ngòi rạch chảy vào chiếc nồi nhỏ’ qua một bên, hãy trả lời cho ta câu ‘Trong hạt gạo, chứa đầy cả thế giới’, là gì?”

Lữ Đồng Tân nghe lời này, liền khế hợp huyền chỉ, nên viết kệ sám hối:

“Quăng đi bụng rỗng đàn cầm
Nay chẳng giữ vàng trong ngân
Vừa khi gặp được Hoàng Long
Mới biết xưa lầm dụng tâm.”

Đây là câu chuyện tiên nhân quy y Tam Bảo, cầu mong làm hộ pháp ở chốn già lam. Đạo giáo trong tay của Lữ Đồng Tân khi ấy rất hưng thạnh. Ông là tổ thứ năm của Đạo giáo ở miền Bắc. Chân nhân Tử Dương cũng do xem Tổ Anh Tập, mà rõ nguồn tâm, làm tổ thứ năm của Đạo giáo ở miền Nam. Thế nên, nhờ Phật giáo mà Đạo giáo được hưng thịnh trở lại. Khổng Tủ, truyền đạo đến Mạnh Tử thì thất truyền. Đến đời Tống, tiên sinh Châu Liêm Khê, do từ trong tông môn mà phát minh tâm địa. Trình Tử, Trang Tử, Chu Tử v.v…, cũng từ Phật pháp mà ra. Thế nên, tông môn trợ lực cho Đạo Nho rất nhiều. Hiện nay, có lắm kẻ khinh khi tông môn, thậm chí lại hủy báng. Đó là muốn gieo nghiệp tội vô gián. Chúng ta hôm nay có duyên lành, gặp pháp hội thù thắng, phải nên vui mừng, phát nguyện rộng lớn. Người người làm nơi nương tựa quy y cho trời rồng, khiến chánh pháp mãi hưng thịnh. Vì vậy, tham thiền học đạo, không phải là trò chơi trẻ con. Hãy nên tinh tấn dụng công!

Thiền thất khai thị lần thứ hai của ngài Hư Vân.

Ngày thứ nhất:

Hư Vân tôi đến chùa này chỉ làm rộn thêm thôi. Nay nhờ quý hòa thượng cùng chư vị ban thủ ân cần ưu đãi, tôi thật rất tri ân. Hôm nay, quý Ngài lại yêu cầu tôi ra làm chủ thất nữa. Danh này tôi thật không dám nhận. Nơi đây, lão pháp sư Ứng Từ, là vị tuổi cao lạp lớn. Đáng lẽ đại chúng phải theo sự chỉ dạy của Ngài mới thật hợp lý. Đồng thời, trong chùa có rất nhiều vị pháp sư, đều là các bậc cao tăng thạc đức. Tôi chỉ là bọt bèo trên nước, thật rất vô dụng. Nay tuổi càng cao, khách khí càng nặng nề.

Ngay cả pháp thế gian, cũng không luận là tuổi nhiều hay ít. Xưa kia, trong những lần thi khảo hạch tại kinh đô, không kể tuổi tác lớn nhỏ, mọi người phải tôn kính và gọi vị chủ khảo là thầy. Đạo Phật cũng thế, như Bồ Tát Văn Thù, đã chứng quả vị Phật trong đời quá khứ, cũng từng dạy dỗ mười sáu vị thái tử. Phật A Di Đà là vị thái tử thứ nhất. Phật Thích Ca cũng là đệ tử của Ngài. Đến khi Phật Thích Ca thành Phật, Bồ Tát Văn Thù lại xuống phụ trợ. Thế nên, đạo Phật rất bình đẳng, không có cao thấp. Qua câu chuyện này, tôi muốn nhắc nhở chư vị rằng chớ nên hiểu lầm về tuổi tác.

Tham thiền học đạo, chúng ta phải tôn kính quy chế, pháp thức. Chư vị phát khởi đạo tâm, ngồi thiền nghe kinh, thật rất khó được. Ai ai cũng không quản mưa gió khổ nhọc, bận rộn làm ăn buôn bán ngày đêm, mà tự nguyện đến đây, tham gia thiền thất. Chứng minh rằng mọi người đều có đạo tâm, thích tịch tĩnh, chán phiền não.

Tôi và chư vị xưa nay, vốn đồng một tâm, chỉ khác mê ngộ. Tất cả chúng sanh, ngày đêm bận rộn, không phút rãnh rỗi. Suy nghĩ cặn kẽ, thật là vô ích. Ở thế gian, có người ngày đêm bôn ba, nghĩ tưởng ngu si, tham đắm ăn mặc, ca múa hát xướng, lại chỉ mong con cháu được phú quý vinh hoa mãi mãi. Khi quỷ vô thường đến, vẫn còn lo giữ vợ con tài sản. Những người như thế, thật quá si mê. Lại có người, biết chút ít về lý nhân quả thiện ác, thích tạo công lập đức, chỉ muốn cúng dường trai tăng, đắp tô tượng Phật, sửa chữa chùa chiền v.v… Nhưng những việc đó, chỉ là phước đức hữu lậu. Họ không hiểu ý nghĩa cao siêu của công đức vô lậu, nên không muốn tu hành. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói: “Nếu có người ngồi thiền trong một khoảnh khắc, thì công đức nhiều hơn xây hằng sa bảo tháp.”

Ngồi thiền khiến thân tâm an lạc, đưa mình trở về tự tánh trong sáng tròn đầy, có thể giúp chúng ta thoát cảnh trần lao khổ nhọc và cắt đứt dòng sanh tử luân hồi. Trong một khoảnh khắc, nếu luôn hồi quang phản chiếu, thanh tịnh thân tâm, tuy chưa ngộ đạo, nhưng đã trồng nhân lành trở về Phật tánh. Đến ngày sắp thành tụu, công phu nếu đắc lực, trong một sát na, có thể thành Phật. Trong kinh Lăng Nghiêm, tôn giả A Nan bạch Phật: “Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân.” Tức là không cần phải trải qua ba a tăng kỳ kiếp mà vẫn đắc được pháp thân.

Chúng ta, lăn lộn trong trần lao, vui buồn giận tức, lúc được lúc mất, chìm trong năm món dục lạc, cầu mong thọ dụng phước báo. Nay đến thiền đường, cùng nhau sống trong yên lặng, tịch tĩnh, thấy những việc chưa từng thấy, nghe những việc chưa từng nghe, sáu căn thu nhiếp vào trong, như các căn của rùa, cảnh giới thuận nghịch gì cũng không dao động. Đấy là tu pháp vô vi, cũng là pháp vô lậu. Nếu lấy vàng bạc và bảy loại châu báo để xây cất bảo tháp nhiều như số cát sông Hằng, thì vẫn không bằng công đức ngồi thiền tĩnh tọa trong một giây phút.

Sáu căn rút vào, như rùa thường thu nhiếp các căn khi gặp loài hải cẩu. Hải cẩu thích ăn thịt rùa, nên thường tìm bắt. Rùa biết hải cẩu muốn ăn thịt mình, nên rút bốn chân, đầu và đuôi vào thân. Khi đó, hải cẩu không thể bắt được. Rùa liền thoát nạn.

Ở thế gian, không có tiền mua quần áo thức ăn, thì chắc phải chết. Nhưng nếu có tiền thì tiêu xài xa hoa, đắm trong sắc dục, không thể xả bỏ, như hải cẩu cắn được đầu rùa. Nếu biết tai hại, thì phải lo thu nhiếp sáu căn, hồi quang phản chiếu. Khi ấy, mới mong sống lại từ trong cái chết.

Hai ngày trước, tôi có nói về pháp trong tông môn, vốn là chánh pháp nhãn tạng, là tâm pháp của Như Lai, là nền tảng cắt đứt dòng sanh tử luân hồi.

Bàn về tông môn, tuy khiến nhiều người khởi tâm tín giải, nhưng đa số đều hiểu trên cành lá văn chương từ ngữ, khó được khai ngộ hoàn toàn. Nếu muốn dùng pháp môn này để cắt đứt dòng sanh tử thì phải trải qua quá trình tu chứng, thật rất khó khăn.

Xưa nay, khi nghe giảng kinh thuyết pháp và bàn về chỉ thú tông môn, thì người hiển hiện thần thông, lập địa triệt ngộ không ít. Trong tông môn, ngoài chư vị tỳ kheo đạt được tai mắt không thể nghĩ bàn, lại có rất nhiều nhân tài trong giới ni chúng.

Xưa kia, Quán Khê, vốn là đồ đệ của ngài Lâm Tế. Sau bao năm dụng công, vẫn chưa đại triệt đại ngộ, nên đi tham phương cầu đạo, đến chỗ ni sư Mạt Sơn. Khi đến chùa, thị giả của Mạt Sơn hỏi: “Bạch Thượng Tọa! Ngài vì Phật pháp hay vì du ngoạn mà đến đây?”

Đáp: “Tôi đến vì Phật pháp.”

Sau đó, Mạt Sơn ra hỏi: “Vì Phật pháp mà đến. Vậy hãy theo phép tắc mà đánh trống thăng tòa.”

Nói xong, Mạt Sơn bước lên tòa. Ngài quán Khê chỉ chấp tay xá. Mạt Sơn lại hỏi: “Hôm nay Thượng Tọa vừa rời chỗ nào?”

Đáp: “Nơi ngã ba đường.”

Hỏi: “Sao không che lại?”

Quán Khê không đáp được, mới bắt đầu lễ bái, rồi hỏi: “Mạt Sơn là vật gì?”

Đáp: “Không để lộ đỉnh đầu.”

Hỏi: “Chủ Mạt Sơn là ai?”

Đáp: “Ngoài tướng năm nữ.”

Hỏi: “Sao chẳng biến mất?”

Đáp: “Chẳng phải thần. Chẳng phải quỷ. Biến hóa cái gì?”

Quán Khê không lời đối đáp, nên ở lại, làm vườn trong ba năm. Sau khi đại triệt đại ngộ, Quán Khê thượng đường bảo: “Ta ở tại ông già Lâm Tế đắc được phân nửa. Ở tại bà già Mạt Sơn được phân nửa. Cộng lại thành một thìa. Ắn mãi cho đến hôm nay vẫn còn no.”

Chúng ta thấy rằng ngài Quán Khê vừa là đồ đệ của Lâm Tế vùa là pháp tử của Mạt Sơn. Điều này chứng tỏ là trong ni chúng cũng có nhân tài cái thế, tay mắt hơn người. Hiện tại, có rất nhiều ni chúng. Sao không thấy tai mắt nào lộ mặt, thị hiện chánh pháp?

Đấy mới thấy Phật pháp rất bình đẳng. Mọi người phải nên nỗ lực tinh tấn, chớ khiến thối đọa, làm che mờ tự tánh thanh tịnh, bỏ mất nhân duyên kiến tánh. Cổ nhân nói: “Một trăm năm, ba mươi sáu ngàn ngày mà không khi nào biết xả thân nơi bờ tịch tĩnh.”

Chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay, trôi lăn trong vòng sanh tử. Vì không dám xả bỏ thân tâm để tu học pháp thanh tịnh, nên bị luân hồi, không thể giải thoát. Thế nên, mọi người phải cố gắng xả bỏ tất cả để ngồi trên bờ tịch tĩnh. Hy vọng mọi người đồng chứng vô sanh pháp nhẫn.

Ngày thứ hai.

Đây là ngày thứ hai của thiền thất lần thứ hai. Trong thời gian ngắn ngủi, chư vị đến tham gia thiền thất ngày một tăng. Ai ai cũng chán phiền não, thích tịch tĩnh. Chứng minh, người ở vùng Thượng Hải thiện tâm rất thuần thục, phước đức sâu dầy.

Xưa nay, thế gian khổ nhiều vui ít. Thời giờ trôi qua mau chóng. Vài thập niên vụt qua trong chớp mắt. Ngay cả Bành Tổ sống đến tám trăm tuổi mà theo nhãn quan Phật giáo thì rất ngắn ngủi. Lệ thường, con người sống đến bảy tám mươi tuổi là nhiều. Nay biết duyên đời mong manh, như huyễn như hóa, lưu chuyển không dừng, nên mới đến đây tu hành. Thật là thiện căn sâu dầy. Nhưng pháp tu hành, quý tại lâu dài. Tất cả chư Phật, chư Bồ Tát đã từng trải qua bao kiếp tu hành gian nan khổ sở, mới thành công được. Kinh Lăng Nghiêm, chương Quán Thế Ấm Bồ Tát Viên Thông: “Nhớ khi xưa, hằng sa vô số kiếp, có Phật ra đời, hiệu là Quán Thế Ấm. Nơi đức Phật đó, con phát tâm bồ đề, được Ngài dạy tu pháp văn tư tu, nhập tam ma địa.”

Chứng minh rằng Quán Thế Ấm Bồ Tát, không phải chỉ tu trong một ngày, hai ngày mà thành thục. Ngài cũng công khai chỉ dẫn phương pháp dụng công tu hành. Trong pháp hội Thủ Lăng Nghiêm, giữa hai mươi lăm vị thánh, Ngài là vị tu hạnh viên thông bậc nhất. Pháp dụng công của Ngài là từ văn tư tu, đắc được nhĩ căn viên thông, nhập tam ma địa. Tam ma địa, tiếng Tàu gọi là chánh định. Ngài Quán Thế Ấm lại nói thêm: “Nơi trong tánh nghe, nhập lưu vong sở.”

Phương pháp này dùng tai nghe lại tự tánh của mình, không cho sáu căn chạy theo sáu trần, phải nhiếp chúng vào pháp tánh. Lại bảo: “Năng nhập và sở nhập đều tịch tĩnh. Hai tướng động tịnh, rõ ràng không sanh khởi. Tăng tiến dần dần như thế, cái nghe và cái bị nghe đều diệt mất.”

Tức là bảo chúng ta khi dụng công, phải nghe lại chính mình, đừng để gián đoạn. Dụng công tu hành tăng tiến, từ từ đắc được: “Cái giác và cái bị giác đều không. Giác và không đều viên tịch, tròn đầy. Cái không và cái bị không đều tịch diệt. Sanh diệt đều diệt mất thì tịch diệt hiện tiền.”

Muốn đạt đến cảnh giới này, phải do công phu tu hành, nghe lại tự tánh của mình. Tất cả mọi sanh diệt đều diệt hết thì tâm cuồng loạn chợt ngưng. Khi ngưng thì tâm Bồ Đề hay chân tâm thanh tịnh liền hiển hiện.

Ngài Quán Thế Ấm đạt đến cảnh giới đó. Ngài nói: “Đột nhiên, vượt ngoài pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Mười phương đều tròn đầy trong sáng. Khi ấy đạt được hai việc thù thắng: Thứ nhất, trên hợp với bổn tâm diệu giác của mười phương chư Phật, cùng đồng nhất lực từ bi. Thứ hai, dưới hợp với tất cả sáu loài chúng sanh, cùng đồng nhất bi ngưỡng.”

Hôm nay, chúng ta tu hành học Phật pháp. Đầu tiên phải tự mình công phu cho thuần thục. Phải độ tận hết mọi chúng sanh tham sân si mạn nghi ác kiến, chứng đạt đến chơn tâm diệu giác thanh tịnh xưa nay thì sau này mới thượng hành hạ hóa. Như ba mươi hai ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Ấm, tùy theo chủng loại mà hóa độ. Bồ Tát Quán Ấm hóa hiện nơi thế gian, hoặc làm đồng nam đồng nữ, hoặc làm cư sĩ tể quan, v.v… Người đời không biết Bồ Tát Quán Thế Ấm, vốn đã thành Phật trong đời quá khứ, không còn tướng nhân ngã, nam nữ. Ngài tùy theo căn cơ chúng sanh mà ứng hiện. Thế nên, mỗi khi nghe đến danh hiệu ngài Quán Thế Ấm thì chúng ta liền khởi tâm ái kính. Đời quá khứ, chúng ta vốn đã từng niệm danh hiệu Ngài, nên trong ruộng thức thứ tám, hạt giống lành vẫn luôn khởi mãi. Kinh nói: “Tai vùa nghe tiếng thì hạt giống đạo lưu giữ mãi mãi.”

Hôm nay, chúng ta phải y theo pháp tối thượng thùa đã tu đã chứng của chư Phật chư Bồ Tát. Pháp môn hiện tại là phải hiểu rõ bổn tâm diệu giác, tức là thấy tánh thành Phật. Nếu không rõ tâm địa thì không thể thành Phật được. Nếu muốn hiểu rõ tâm địa thì đầu tiên phải hành theo thiện đạo, tức con đường lành. Từ sáng đến tối, các việc ác chớ làm, phải phụng hành các việc thiện, khiến phước đức được tăng trưởng.

Lại nữa, đề khởi câu thoại đầu trong một khoảnh khắc, nếu một niệm không sanh, thì lập tức thành Phật. Chư vị phải tận dụng thời gian. Chớ dụng tâm tán loạn. Cố gắng đề khởi thoại đầu cho hay.

Ngày thứ ba.

Hôm nay là ngày thứ ba của thiền thất thứ hai. Người dụng công thuần thục, trong động và tịnh, đều kiểm soát được tâm mình. Sao lại để tâm phân biệt thiền thất thứ nhất thứ hai hoặc hai ngày, ba ngày!

Người sơ phát tâm, phải cố gắng nỗ lục tinh tấn, chớ nên để tâm ngu mê ám độn, làm uổng phí thời giờ. Nay tôi lại nói thêm một ví dụ cho chư vị mới phát tâm bồ đề nghe. Hy vọng chư vị hiểu rõ.

Trong thiền đường các nơi, có thờ một vị Bồ Tát Thánh Tăng, vốn là anh em họ với Phật Thích Ca, tức tôn giả Kiều Trần Như. Khi đấng Thế Tôn vừa xuất gia, vua Tịnh Phạn phái ba vị thuộc hệ tộc bên cha và hai vị thuộc hệ tộc bên mẹ, đến núi Tuyết Sơn trợ giúp. Tôn giả Kiều Trần Như là một trong hai người thuộc hệ tộc bên mẹ của Phật. Sau khi đấng Thế Tôn thành đạo, Ngài liền đến vườn Lộc Uyển, thuyết pháp Bốn Thánh Đế. Tôn giả là vị ngộ đạo đầu tiên hết. Đồng thời, Tôn Giả cũng là vị đệ tử xuất gia đầu tiên trong các chư đại đệ tử của Phật. Do đó, chúng ta gọi Ngài là vị Thánh Tăng. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Khi Ta vừa thành đạo, nơi vườn Lộc Uyển, chuyển bánh xe diệu pháp, vì năm ông A Nhã Kiều Trần Như, cùng bốn chúng. Do khách trần phiền não làm mê mờ, nên chúng sanh không thể chứng được quả Bồ Đề hay quả vị A La Hán. Nay, các ông, do nhân duyên gì mà được khai ngộ, chứng quả thánh?”

Nơi đây, Phật hỏi chư đại đệ tử, nhờ dụng công, tu hành pháp môn gì mà chứng được quả vị Thánh. Vì đã liễu giải, ngộ đạo, tôn giả Kiều Trần Như từ nơi chỗ ngồi, đứng dậy bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Con nay là trưởng lão trong đại chúng, độc đắc giải danh, tức nhân liễu ngộ được hai chữ khách trần mà chứng quả.”

Nói xong, Tôn Giả lại giải thích: “Bạch Đức Thế Tôn! Ví như hành khách, ghé ngang quán trọ, hoặc ngủ qua đêm, hoặc ở lại ăn cơm. Ắn ngủ xong, liền mang hành lý đi tiếp, không muốn ở lại. Nếu thật là chủ nhân thì không muốn đi. Vì vậy, con suy nghĩ như vầy: ‘Không ở là hành khách, mà ở lại là chủ.’

Cũng như giọt sương, khi mặt trời lên, ánh nắng chiếu vào, trong giọt sương tỏa ra ánh sáng, có chiếu những hạt bụi. Các hạt bụi vốn dao động, còn hư không thì an nhiên không động. Con lại suy nghĩ: ‘Vắng lặng gọi là hư không. Dao động gọi là khách trần, bụi bặm, cũng gọi là hành khách.”

Tôn Giả giải thích rõ hai chữ khách và chủ. Đấy chỉ là ví dụ, dạy chúng ta biết phương pháp tu hành. Nói cách khác, chân tâm của chúng ta là chủ nhân, vốn không dao động. Vọng tưởng vốn dao động, tức là khách. Vọng tưởng ví như bụi bặm, rất vi tế, nhỏ nhít. Bụi bặm bay trong hư không. Khi có ánh nắng mặt trời chiếu qua cửa sổ thì mới thấy được chúng. Bình thường, khi tâm động đậy, vọng tưởng khởi lên, chúng ta rất khó biết. Đến lúc ngồi tĩnh tọa tu hành, dụng công thì mới thấy rõ mình có quá nhiều tạp niệm. Nếu công phu không đắc lực thì không thể kiềm chế được tạp niệm, không thể ngộ đạo, mãi lăn lộn trong biển sanh tử. Đời nay tên Trương. Đời sau tên Lý. Như hành khách, ngủ tạm nơi quán trọ, không thể ở lại lâu dài. Trụ được mà không động, gọi là ông chủ. Ông chủ ví như hư không, chứa bao bụi bặm. Nói chung, hư không là tịch nhiên không động. Cũng như chủ nhân của quán trọ, mãi mãi ở lại, không đi nơi khác.

Giảng về danh tướng, trần nghĩa là trần sa cát bụi, tức phiền não. Khi đạt đến quả vị Bồ Tát, thì mới cắt đứt được. Vọng tức là vọng hoặc. Hoặc có mười tám loại kiến hoặc. Tư hoặc có tám mươi mốt phẩm. Kiến hoặc do năm loại độn sử tạo ra. Người tu hành, đầu tiên phải cắt đứt kiến hoặc thì mới chứng nhập quả Tu Đà Hoàn. Nhưng, bước đường công phu này rất là gian nan. Đoạn trừ kiến hoặc như lội ngược dòng bốn mươi dặm. Vì vậy, chúng ta phải dụng công mạnh mẽ, thâm sâu. Tư hoặc đoạn dứt thì mới chứng quả A La Hán. Cách dụng công này, thuộc về tiệm thứ, tức tu từ từ.

Hiện tại, chúng ta chỉ cần khởi câu thoại đầu, linh linh bất muội, rõ ràng thường biết. Khi vung đao lên, kiến hoặc hay tư hoặc liền bị chặt đứt. Lúc ấy, trời xanh không dính mắc mây hồng. Ánh dương lơ lững trong hư không. Ánh sáng tự tánh tự nhiên hiển lộ.

Tôn giả Kiều Trần Như đã ngộ được đạo lý, nhận rõ ông chủ thật của mình.

Do đó, bước đầu tiên dụng công của chúng ta là phải nhận rõ ra khách trần. Khách trần là động. Chủ nhân thì bất động. Nếu không nhận ra khách chủ thì không thể biết chỗ dụng công, uổng phí thời giờ.

Hy vọng mọi người lưu tâm tham khán.

Ngày thứ tư.

“Phật pháp cao siêu rất nhiệm mầu. Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu.”

Trở lại chùa Ngọc Phật đả thiền thất, thật là nhân duyên thù thắng. Chư vị cư sĩ nam nữ khắp nơi đến tham gia, trồng nhân chân chánh thành Phật. Thật là hy hữu khó được.

Phật Thích Ca thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Kinh nói: “Nếu người tâm tán loạn, đang khi ở trong tháp miếu, xưng ‘Nam Mô Phật’ một lần, thì đều thành Phật đạo.”

Người người trên thế gian, sống trong vài thập niên, không biết tỉnh giác, chỉ để ngày tháng trôi qua vô ích. Khi sống, nếu có tiền thì xài hoang phí trong rượu chè sắc dục. Kẻ không tiền thì bị miếng cơm manh áo hành hạ, khiến phải bôn ba khổ nhọc làm lụng, hiếm khi được an nhàn tự tại. Thật khổ không thể tả. Nhưng những người này, nếu có một lần nào đến chùa lễ Phật, thấy cảnh trang nghiêm thanh tịnh mà sanh tâm vui vẻ, hoặc thấy tượng Phật tượng Bồ Tát mà tùy hỷ xưng niệm thánh hiệu, thì sẽ thành Phật đạo.

Bình thường, mắt chúng ta ngắm trăng hoa gió tuyết, tai nghe ca ngâm hát xướng, miệng tham hương vị thơm ngon, hay bị nhiễm tư hoặc. Khi đó, tâm bị tán loạn, tức là tâm sanh tử, không vọng. Nay đến chùa chiền, xưng một danh hiệu Phật, đó là trở về tâm giác ngộ, thanh tịnh, là gieo hạt giống Bồ Đề sẽ được thành Phật.

Chữ Phật, tiếng Phạn gọi là Phật Đà. Tiếng Tàu gọi là giác giả. Giác giả tức là không ngu mê. Tự tánh thanh tịnh tức là tâm giác ngộ.

Chúng ta, hôm nay, không vì danh lợi mà đến, chính do lực của tâm giác ngộ thúc đẩy. Nhưng, cũng có nhiều người, khi nghe đến danh từ đả thất thì sanh tâm sợ hãi, mà không biết ý nghĩa là gì. Lại nếu dùng tâm tò mò, lăng xăng, lộn xộn mà đến đây thì không thể nào dụng công chính chắn được.

Nay đã đến đây, như người leo lên núi châu báo, đừng mang tay không về. Phải phát tâm vô thượng, ngồi cho được một cây hương, trồng nhân chân chánh thành Phật, thì tương lai ai ai cũng đều thành Phật.

Xưa kia, đệ tử Phật là Tu Bạt Đà La, vốn cô độc bần cùng, không nơi nương tựa, tâm tư thường ưu sầu phiền muộn, nên muốn theo Phật xuất gia. Ngày nọ, ông đến nơi đấng Thế Tôn đang ở, gặp lúc Ngài vừa mới ra ngoài. Chư đại đệ tử A La Hán, quán sát nhân duyên trong tám mươi ngàn kiếp, thấy ông chưa từng gieo trồng căn lành, nên không dám thu nhận, mà bảo hãy trở về nhà. Lúc đó, tâm tư ông lại thêm ưu sầu buồn bực, tự biết nghiệp chướng nặng nề, nên đi ra ngoài thành, định nhảy xuống sông tự tử. Không ngờ, lúc ấy, đức Thế Tôn tiến đến, hỏi rõ nguyên nhân. Ông thuật lại tường tận. Phật liền thâu nhận ông làm đồ đệ. Trở về chùa, trong bảy ngày tu tập, ông chứng được quả A La Hán. Chư đại đệ tử, không biết rõ chuyện, nên hỏi đức Phật. Phật đáp: “Các ông chỉ biết việc trong vòng tám mươi ngàn kiếp trở lại thôi. Hơn tám mươi ngàn kiếp thuở xưa, ông Tu Bạt Đa đây đã từng trồng căn lành. Bấy giờ, ông cũng rất nghèo khổ, thường hái củi sinh sống. Ngày nọ, đang lúc lượm củi, ông gặp hổ trên núi, không biết chạy trốn nơi đâu, liền leo lên cây lánh nạn. Hổ thấy ông leo lên cây, liền đi vòng quanh, cắn gốc cây. khi cây gần ngã, ông run sợ vô cùng vì không ai tới cứu. Khi đó, ông chợt nghĩ đến chư Phật đại giác, đầy đủ tâm lực từ bi, luôn cứu hộ chúng sanh khổ não, nên xưng: “Nam mô Phật! Xin Ngài thương xót, mau đến cứu con!”

Hổ nghe tiếng ‘Nam Mô Phật’, nên liền bỏ đi, chưa hại gì được ông. Do trồng nhân lành chân chánh, nên nay đã thành thục, chứng được đạo quả.”

Chư đại đệ tử nghe xong liền hiểu rõ, tâm rất vui mừng, tán thán việc chưa từng có.

Chúng ta hôm nay gặp được duyên lành, đến đây ngồi thiền tĩnh tọa, vun bồi nghiệp thiện nhiều hơn ông Tu Bạt Đà La rồi. Vậy, chớ cho là trò chơi trẻ nít. Nếu vì nhộn nhịp mà đến thì thật phí uổng thời gian.

Ngày thứ năm.

Người có tín tâm, thâm sâu đầy đủ, nơi thiền đường luôn nỗ lực dụng công. Chư thượng tọa chuyên môn tham thiền thì đương nhiên công phu thuần thục. Nhưng khi đã thuần thục rồi, phải biết dụng công tương ưng, xoay về cội nguồn, sự lý viên dung, động tịnh không ngại, đừng ngồi chết lì ra, đừng lạc vào hôn trầm mê muội, hay đắm thích cảnh giới thanh tịnh. Nếu tham đắm cảnh giới thanh tịnh, không biết trợ công hổ tương, ví như cá mắc cạn trong băng tuyết, không hy vọng nhảy ra cửa của loài rồng, thật rất vô dụng. Người sơ phát tâm dụng công tu hành, phải nhớ nỗi thống khổ của sanh tử, mà khởi tâm hổ thẹn và xả bỏ muôn duyên, thì mới mong có chút định lực. Nếu không thể xả bỏ thân tâm thì sanh tử quyết định không thể cắt đứt.

Từ vô thủy đến nay, chúng ta mê lầm trong thất tình lục dục, mãi lẫn quẩn trong âm thanh sắc tướng, không biết chân tâm thường trụ, nên phải trầm luân, lặn hụp trong biển khổ. Nay, chúng ta đều biết rõ mọi việc trên thế gian đều là khổ não, nên phải tận tình xả bỏ, quyết định tu hành thành Phật.

Ngày thứ sáu.

Lần tham gia đả thất này, theo tôi nhận thấy thì nam nữ sơ phát tâm chiếm đa số, nên quy củ phép tắc đều không hiểu. Vì vậy, mỗi động tác đi đứng nằm ngồi, đều làm phiền những người đang ngồi thiền. Nhưng, Ngài trụ trì rất từ bi, giúp đỡ chúng ta mau thành tụu đạo nghiệp. Quý thầy Ban Thủ cũng phát đạo tâm vô thượng, lãnh đạo dẫn dắt, khiến chúng ta tu trì đúng như pháp. Đấy là cơ hội khó gặp trong muôn kiếp. Chúng ta phải dõng mãnh tinh tấn tham khán tu hành.

Bên trong, luôn đề khởi câu thoại đầu ‘Ai đang niệm Phật’, hay ‘A Di Đà Phật’. Chớ khởi tâm tạp loạn, tham lam sân hận si mê. Phải khiến pháp tánh chân như được hiển lộ.

Bên ngoài, phải giữ giới không giết hại, cố gắng phóng sanh, đem mười việc ác chuyển thành mười việc lành. Chớ ăn thịt uống rượu, say sưa từ sáng đến tối, tạo bao nghiệp tội. Nghiệp ác nếu tạo quá nhiều thì nhất định sẽ đọa địa ngục. Nếu vun bồi nhiều nghiệp lành thì phước lợi sẽ tự đến. Nên nhớ rằng hạt giống Phật chỉ khởi lên khi duyên lành đầy đủ. Chư cổ đức thường dạy: “Các việc ác chớ làm. Hãy làm tất cả việc thiện. “

Nếu xem lại nhân duyên mà vua Lưu Ly giết hại dòng họ Thích Ca thuở xưa, thì chư vị sẽ hiểu rõ hơn.

Gần đây, trên thế giới, luôn bị thiên tai hoạn nạn. Nghiệp sát hại nặng nề, đều do quả báo xấu đã tạo thuở xưa. Chúng ta phải luôn khuyên người thế tục nên giữ giới không sát hại, phải ăn chay niệm Phật. Đó chính là chúng ta tự giúp mình tránh quả báo xấu trong nẻo luân hồi. Chư vị hãy nên tin tưởng thực hành, trồng nhân lành thì sẽ thành tựu Phật quả.

Ngày thứ bảy.
“Đời phù du như mộng
Huyễn chất không bền chắc
Nếu không nương Phật từ
Làm sao siêu thăng được?”

Trong cuộc sống như huyễn như mộng, chúng ta điên điên đảo đảo, không biết sự cao siêu của đạo Phật, không nghĩ đến việc thoát ra khỏi sanh tủ. Thăng trầm trong nghiệp lành nghiệp ác, nên tùy theo chúng mà thọ quả báo. Vì vậy, người thế gian, làm lành thì ít, mà tạo nghiệp ác lại nhiều. Bố thí thì ít. Tham tiền thì nhiều. Trôi lăn trong sáu đường. Khổ sở muôn trùng. Có người vừa được sanh ra liền chết, hoặc sống vài tuổi rồi chết, hay chết khi tuổi cao. Như thế, không thể tự chủ được. Nay nương nhờ oai lực từ bi của chư Phật, mới biết được cách thức tu hành để thoát ra khỏi biển khổ sanh tử, đạt đến bờ giác.

Từ bi nghĩa là thấy tất cả chúng sanh, bị bao thống khổ, nên chư Phật khởi tâm thương xót cứu hộ, khiến chúng xa rời khổ nhọc, đạt được an lạc.

Hỷ xả tức là thấy chúng sanh tạo bao công đức, hoặc phát khởi tâm lành, nên đều khen ngợi vui theo. Đối với tất cả mọi cầu nguyện của chúng sanh, chư Phật đều tùy theo tâm thành mà gia hộ cho.

Lúc đức Thế Tôn còn tu hành tại nhân địa, Ngài hành hạnh Bồ Tát xả đầu não xương tủy. Vì vậy Ngài thường bảo: “Trong cõi tam thiên đại thiên thế giới, không có hạt bụi nào mà không phải là thân thể xương tủy của ta thí xả.”

Nay, chư vị nên nỗ lực, giữ chặt câu thoại đầu, đừng để thời gian trôi qua uổng phí.

Giải thất.

Chúc mừng chư vị đã tham gia hai tuần thiền thất được viên mãn, công đức đầy đủ. Vậy, chúng ta hãy mau giải thất. Người xưa bảo: “Vốn không có kiết thất, giải thất, chỉ tham khán thoại đầu đến khi nào khai ngộ thôi.”

Hôm nay, dầu chư vị đã ngộ hay chưa khai ngộ, phải luôn tuân theo quy củ. Trong thời gian dụng công, không phân biệt sáng tối, ngày đêm, mục đích chỉ vì khai ngộ, nhằm đào tạo nhân tài cho Phật giáo. Nếu bị hôn trầm mê muội, chỉ khiến thời gian trôi qua vô ích, thì thật sự bỏ dịp hiếm có. Nay, đại lão hòa thượng trụ trì cùng quý thầy Ban Thủ, thể theo quy củ, kiểm nghiệm công phu tu hành của chư vị. Hy vọng đừng nói lời tạp nhạp, chỉ nên chân thật đối đáp rõ ràng công phu của mình cho chư hòa thượng chứng minh. Cổ đức bảo: “Tu hành trong ba đại kiếp. Ngộ đạo chỉ trong sát na.”

Công phu nếu đắc lực thì trong khảy móng tay, liền giác ngộ. Xưa kia, thiền sư Gia Giác, có một nữ đệ tử thường thích tham thiền. Ngài dạy cô tham quán câu: “Để cho nó đi.”

Cô ta y theo lời dạy, hành trì không thối chuyển. Ngày nọ, nhà bị cháy, cô bảo: “Để cho nó đi.”

Lần khác, khi có người chạy đến nhà báo tin con của cô bị chết đuối, cô ta cũng bảo: “Để cho nó đi.”

Muôn duyên đều xả bỏ, y theo lời dạy mà tu hành. Một hôm khác, chồng cô đang đốt lò chiên bánh, cô liền đổ dầu vào chảo, làm vang tiếng ‘Xèo’. Nghe tiếng đó, cô ta chợt ngộ đạo. Cô bưng chảo dầu ăn đổ xuống đất, vỗ tay, cười to. Người chồng tưởng cô điên, nên mắng: “Sao bà làm thế? Bà điên rồi à!”

Cô đáp: “Để cho nó đi”, rồi đến gặp thiền sư Gia Giác cầu chứng minh. Thiền sư Gia Giác ấn chứng cho cô ta đã chứng quả thánh.

Hôm nay, chư vị nếu ngộ được điểm nào, hãy nên bước ra.

(Nói xong, Ngài đi ra thiền đường. Kế đến, lão pháp sư Ứng Từ cùng vài vị tăng ra giảo nghiệm thiền khách. Sau khi chỉ tịnh, Ngài trở vào thiền đường, chỉ giáo đại chúng.)

Hồng trần loạn lạc, phố xá náo nhiệt, phiền toái. Ai lại có công phu và tâm tư đến đây tĩnh tọa, tham quán thoại đầu? Chỉ có chư vị, người Thượng Hải, căn lành thâm hậu, mới làm được thôi. Nay, nhờ nhân duyên thù thắng, mới gặp được pháp hội này.

Từ xưa, Phật giáo Trung Quốc tuy có các tông phái như Luật tông, Tịnh Độ tông, Mật Tông v.v… Nhưng nếu nghiên cứu kỹ càng thì pháp của tông môn vuợt hơn hết. Trước kia tôi đã nói rồi. Tiếc rằng gần đây Phật pháp suy vi, hiếm thấy nhân tài xuất hiện. Thuở xưa, tôi đã từng đi tham bái các nơi, thấy rõ việc tu hành ngày nay khác xa khi xưa. Nói đến đây, tôi rất xấu hổ. Nay nhờ ngài Trụ Trì và quý thầy trong chùa, từ bi, mời tôi ra trước. Nên nhớ, lão pháp sư Ứng Từ có đủ tài đối đáp. Ngài là vị thiện tri thức, kiêm thông tông giáo, chân chánh là bậc tiền bối. Tôi bất tất chỉ ra phụ giúp Ngài thôi. Hiện tại, tôi không làm được ích lợi gì hết.

Cầu mong chư vị hãy tinh tấn tiến bước, đừng khởi tâm thối lui. Tổ Quy Sơn bảo: “Hận cho mình sanh nhằm thời tượng pháp, thánh đạo đã suy vi, Phật pháp giảm dần, nhiều người giải đãi, làm biếng. Tôi không ngại đưa ra cái nhìn thô thiển của mình cho những kẻ hậu lai.”

Ngài Quy Sơn Linh Hựu, người Phước Kiến, thân cận thiền sư Bá Trượng, phát minh được tâm địa. Tư Mã Đầu Đà tại Hồ Nam, thấy địa thế núi Quy Sơn rất tốt, là nơi xuất sanh ra một ngàn năm trăm vị thiện tri thức. Khi đó, dưới tòa Bá Trượng, ngài Linh Hựu làm điển tọa. Vừa thấy ngài Linh Hựu, Tư Mã Đầu Đà liền biết đây là chủ nhân của núi Quy Sơn, nên thỉnh ngài Bá Trượng cho vời Linh Hựu qua núi Quy Sơn khai sáng. Phật pháp khi ấy nằm trong thời tượng pháp, thuộc đời Đường. Thế nhưng, ngài Linh Hựu lại tự than trách là mình sanh không nhằm thời, khó mà sáng đạo được.

Nay, chúng ta sống cách xa đời ngài Quy Sơn cả một ngàn năm. Không những đời tượng pháp đã hết, mà đời mạt pháp lại qua lâu rồi. Người có căn lành ngày càng ít ỏi. Tín tâm của chúng ta từ từ thối thất, không dám hạ thủ công phu, nên quả vị Phật không thời kỳ chứng đắc. Tuy tin Phật thì đông, nhưng kẻ chân thật tu hành lại quá ít.

So sánh sơ lược, thời Hàm Đồng (1851-62), các chùa chiền tự viện đều bị phá hoại. Dưới miền xuôi tam giang, chỉ còn có chùa Thiên Đồng là được bảo toàn. Đến năm Thái Bình, chư vị trưởng lão từ núi Chung Nam, xuống trùng hưng lại các tự viện. Khi đó, các ngài chỉ có một bình bát và giỏ tre. Sau này, Phật pháp dần dần hưng thịnh trở lại. Chư tăng bắt đầu mang đầy hành lý. Cho đến hôm nay, chư tăng còn mang theo cặp táp, rương cáp, đủ thứ cả. Đối với sự chân chánh hành trì Phật pháp, một điểm nhỏ cũng không nghĩ tới.

Xưa kia, thiền sinh muốn đi tham phương cầu đạo, phải lội bộ nhọc nhằn. Ngày nay, có xe lửa, xe hơi, tàu bè, máy bay. Vì thế, chỉ lo hưởng phước, không muốn chịu khổ. Đa số đều phóng dật, làm biếng. Tuy các Phật học viện cũng tùy thời mà huấn luyện, dạy dỗ tăng chúng, khiến đoàn thể chư tăng ngày càng đông, nhưng đối với sự tu hành căn bản thì ít ai chịu xoay nhìn lại. Ngày ngày, từ sáng đến tối, chỉ cầu tri giải, không cầu tu chứng, chỉ vì không biết rằng pháp tu chứng là chìa khóa, giải quyết mọi vấn đề. Trong Chứng Đạo Ca, ngài Vĩnh Gia Huyền Giác bảo:

“Hãy bám gốc, chớ giữ ngọn
Như hạt lưu ly thanh tịnh chứa bảo nguyệt
Ôi! Thời mạt pháp, cõi đời ác trược
Chúng sanh phước kém, khó điều phục
Xa rời thánh giáo, tà kiến thâm trọng
>Ma cường pháp nhược, nhiều oán hận
Nghe môn đốn giáo của Như Lai
Hận không diệt trừ đập nát
Làm tại tâm, họa tại thân
Chẳng nên gieo oán hờn cho kẻ khác
Nếu muốn không chiêu nghiệp vô gián
Chớ phỉ báng chánh pháp luân Như Lai
Tôi sớm tích tụ nhiều học vấn
Cũng từng tham tầm học kinh luận
Phân biệt danh tướng không biết ngừng
Bị vây trong tính toán cát biển khơi
Liền bị Như Lai quở trách
Đếm trân bảo của người, có ích lợi gì.”

Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác đến tham vấn với Lục Tổ Huệ Năng liền đại triệt đại ngộ. Vì vậy, Lục Tổ ban cho Ngài Vĩnh Gia pháp hiệu: “Nhất Túc Giác.”

Các bậc cổ đức thường bảo tầm kinh học luận chỉ giống như vào biển đếm cát. Nhưng, pháp trong tông môn như bảo kiếm Kim Cang, chém đến vật nào thì đứt đoạn vật đó. Vật gì đụng đến lưỡi kiếm đều bị mất mạng. Thật vậy, tông môn là pháp tối thượng, cứu cánh đạt thành Phật. Như thiền sư Thân Tán, lúc trẻ, thường đi hành cước, đến thân cận tổ sư Bá Trượng, được khai ngộ. Sau đó, trở về chùa thầy mình. Thầy bổn sư hỏi: “Con xa ta, ra ngoài được sự nghiệp gì?”

Ngài Thân Tán đáp: “Bạch Thầy! Không được sự nghiệp gì hết!”

Thầy bổn sư liền bảo Ngài theo hầu. Ngày nọ, thầy bổn sư đi tắm, bảo ngài Thân Tán kỳ thân giùm. Ngài Thân Tán liền vỗ lưng thầy bổn sư và nói: “Điện Phật rất đẹp, nhưng Phật không phải là Thánh.”

Thầy bổn sư vẫn chưa lãnh hội, nên xoay đầu lại. Ngài Thân Tán nói thêm: “Phật tuy không phải là Thánh mà thường phóng quang.”

Ngày khác, thầy bổn sư đang ngồi dưới cửa sổ xem kinh. Có một con ong bay thẳng, đâm đầu vào cửa sổ để tìm chỗ ra. Ngài Thân Tán thấy thế nên nói: “Cả thế giới rộng rãi như thế mà không dám bay ra. Đâm thủng giấy liền thoát bao kiếp lừa.”

Ngài lại nói kệ:

“Chỗ trống không muốn ra
Đâm vào cửa quá nguc
Trăm năm chui vào đó
Khi nào mới ra khỏi!”

Thầy bổn sư nghe thế liền mắng: “Con ra ngoài hành cước, gặp ai, học được gì, thấy đều chi, mà nói nhiều quá vậy?”

Ngài Thân Tán đáp: “Bạch Thầy! Từ khi ra đi, con qua dự dưới hội của tổ Bá Trượng, được Ngài chỉ dẫn đến chỗ nghỉ ngơi. Vì thầy tuổi cao, nên trở về báo đáp từ ân.”

Thầy bổn sư nghe thế, nên bảo đại chúng thiết lễ trai tăng, cung thỉnh ngài Thân Tán lên tòa thuyết pháp. Ngài Thân Tán liền lên tòa, tuyên nói tông phong Bá Trượng:

“Linh quang chiếu sáng
Xa lánh căn trần
Thể lộ chân thường
Không chấp văn tự
Tâm tánh vô nhiễm
Gốc tự nhiên thành
Xa rời vọng duyên
Liền như chư Phật.”

Thầy bổn sư nghe thế, vui mừng bảo: “Ta không ngờ già đến từng tuổi này mà được nghe những lời chí lý như vầy.”

Do đó, thầy bổn sư liền giao chùa cho ngài Thân Tán và lễ Ngài làm thầy.

Xin hãy nghiệm xem câu chuyện này. Sao mà dễ dàng, tự tại quá!

Đã hơn mười ngày tham thiền, nhưng sao chúng ta không ngộ đạo? Lý do chính là vì không dùng tâm kiên cố, dụng công đạp đất, hoặc cho là trò chơi trẻ nít, hoặc nghĩ rằng tu trong thiền đường là đủ rồi. Không phải như thế! Người chân thật dụng công, không phân biệt động tịnh, thiền đường hay phố xá náo nhiệt, mọi nơi đều tu được cả.

Xưa kia, hòa thượng Đồ Tử, đang trên đường tìm thầy học đạo, đi ngang qua một khu chợ, đến quầy bán thịt. Lúc ấy, có nhiều người đến mua thịt. Họ đều yêu cầu phải được thịt tươi. Ông đồ tể nóng giận, phát cáu, chém một nhát dao xuống thớt, mắng: “Thịt nào không phải là thịt tươi?”

Hòa thượng Đồ Tử nghe thế, đột nhiên khai ngộ. Chứng minh rằng người xưa, không phải chỉ ngồi trong thiền đường mới dụng công.

Nay trong chư vị, không ai bước ra cho biết nhân duyên ngộ đạo. Thật có phải uổng phí thời gian lắm không?

Cung thỉnh lão pháp sư Ứng Từ và chư đại hòa thượng, tiếp tục kiểm nghiệm đại chúng.”

Pháp ngữ giải thất.

Vân Công bước ra khỏi thiền đường. Lão pháp sư Ứng Từ kiểm vấn từng người. Xong, lão pháp sư Ứng Từ bảo mọi người ngồi xuống. Lúc đó, Vân Công bước vào thiền đường. Khi mọi người tĩnh tọa, Ngài lại ban lời chỉ giáo. Sau đó, đại chúng dùng trà, rồi đồng đứng dậy. Trong thiền đường, Ngài ngồi trước Phật điện, dùng cây trúc vẽ một vòng tròn và nói kệ:

“Vừa kết thất, lại giải thất
Quên mất ngày giải kết
Nhất niệm vọng duyên cảnh ngừng
Ma ha bát nhã ba la mật
Tâm cảnh tịch, thể dụng đều quy
Gốc tự sáng tròn, không ngày đêm
Sao phân nam bắc cùng đông tây
Muôn sự tùy duyên, quán tự tại
Chim hót hoa cười, trăng soi đáy
Bảo câu giải thất như thế nào?
Nghe đánh bản, liền dâng bình bát
Đế quán bát nhã ba la mật.
Giải thất.”

Tại chùa Ngọc Phật, sau khi giải thất, các cơ quan đoàn thể Phật giáo ở phủ Hàng Châu, phái cư sĩ Đỗ Vi đến Thượng Hải, thỉnh Vân Công qua Hàng Châu.

Ngày chín tháng hai, Vân Công đến Hàng Châu, trú tại chùa Tịnh Từ, đứng ra làm pháp chủ pháp hội. Người quy y Ngài có hơn vài ngàn người. Chính quyền địa phương định thỉnh Ngài ở lại trụ trì chùa Tịnh Từ, nhưng Ngài cáo bịnh, không nhận. Hòa thượng Diệu Chân, pháp sư Vô Ngại ở chùa Linh Nham tại Tô Châu, thỉnh Ngài đến tổ chức pháp hội. Vân Công theo lời mời, đi Tô Châu.

Pháp sự xong, Ngài qua Hổ Khâu, lễ tháp tổ Thiệu Long, thấy tháp viện bị quan dân thổ hào địa phương xâm chiếm, bia phần mộ đá bị xóa tên, chung quanh chỉ còn sỏi đá lởm chởm. Trong những năm niên hiệu Quang Tự (1875-1909), Ngài đã từng ghé qua lễ tháp tổ. Tất cả cảnh tượng, vẫn còn hiện rõ trong ký ức. Tháp Tổ trang nghiêm khi xưa, giờ đây chỉ còn là một đống gạch vụn. Thế nên, Ngài thương lượng với quan thân sĩ thứ địa phương, cùng chư hộ pháp ở Thượng Hải, mau mắn bảo tồn, trùng tu kiến lập lại tháp Tổ. Ngài thỉnh hòa thượng Diệu Chân cùng hòa thượng Sở Quang ở Hổ Khâu, trông coi việc trùng tu tháp Tổ.

Lúc ở tại Tô Châu, Ngài qua châu Thọ Khánh ở Bán Dương, lễ tháp tổ Nguyên Thiện Kế, xem kinh Hoa Nghiêm được viết bằng máu. Ngài lại đến Nam Thông theo sự thỉnh mời của chư cư sĩ. Khi đến Lang Sơn, Ngài làm chủ pháp hội. Người thọ giới quy y có hơn vài ngàn người. Pháp sự xong, Ngài trở về Thượng Hải vào cuối tháng ba.

Tháng tư, nhận được điện tín từ Bắc Kinh, thỉnh Ngài lên kinh đô. Vào kinh thành, Ngài trú tại chùa Quảng Tế. Các đại biểu tăng già khắp nơi, lần lượt đến yết bái Ngài. Liên hội Phật giáo Trung Quốc chánh thức được thành lập. Đại hội quyết định nhiều điều quan trọng. Khi những tu sĩ bại hoại đề nghị bãi bỏ những giới luật đạo đức căn bản, như luật Tứ Phần (giới Tỳ Kheo), kinh Phạm Võng (giớì Bồ Tát), Bá Trượng Thanh Quy v.v…, Vân Công quát mắng họ và viết bài văn ‘Biểu tướng tăng đồ trong đời mạt pháp’. Đại hội kết thúc, Vân Công đi Đại Đồng ở Tây Sơn, tham quan lễ bái tượng Phật đá lớn ở Vân Cương. Khi có ý định muốn rời Bắc Kinh, chính quyền địa phương khuyên Ngài nên đến Lô Sơn dưỡng bịnh.

Tháng năm, Ngài cùng thị giả Giác Dân đi về hướng nam, tạm ghé lại Võ Hán. Hòa thượng Nguyên Thành ở chùa Bảo Thông mời Ngài trú lại chùa, cùng cung thỉnh Ngài làm pháp chủ thiền thất trong hai tuần liên tiếp.

Thiền thất xong, Ngài đi Lô Sơn. Có cư sĩ Trần Chân Như đến trước, đợi Ngài tại Khuông Lô. Nơi Lô Sơn, Ngài trú tại chùa Đại Lâm. Tháng sáu, có một số tăng sĩ từ Vân Cư đến báo tin: “Lúc trước, khi quân Nhật qua xâm chiếm, thấy núi Vân Cư hiểm trở, sợ quân du kích địa phương dễ bề hoạt động, nên chúng đốt sạch toàn bộ chùa Chân Như. Nay thấy tượng đồng Phật Tỳ Lô Giá Na, nằm trong đám bụi rậm.”

Ngài buồn bả khi nghe việc này. Nhớ lại, núi Vân Cư được khai sáng vào đời Đường, niên hiệu Nguyên Hòa, trải qua bao đời, là đạo tràng tối thắng của chư đại Tổ Sư. Chư tổ Đạo Dung, Pháp Ần, Liễu Nguyên, Viên Ngộ, Khắc Cần, Đại Huệ, Tông Cảo, đều từng nhậm chức trụ trì. Những vị tổ sư thường qua đó hoằng duơng Phật pháp như ngài Triệu Châu, Vân Môn, Cổ Tháp, Đồng Sơn, Viên Thông, Chân Tịnh. Các vị cư sĩ nổi tiếng cũng thường đến đó như Bạch Cư Dị, Bì Nhật Hưu, Tô Đông Pha, Hoàng Sơn Cốc, Tần Thiếu Du, Lữ Cư Nhân v.v…, nhiều không thể đếm. Đạo tràng của chư vị tổ sư trải qua bao đời, nay hoang tàn đến mức thậm tệ. Nếu không trùng tu thì sẽ bị chìm trong quên lãng.

Vì thế, Vân Công nguyện phải trùng tu lại. Trước hết, Ngài xin giấy phép từ chính quyền địa phương để sửa chữa. Sau đó, Ngài đến cất am tranh trên núi Vân Cư. Mồng năm tháng bảy, Ngài cùng với một số cư sĩ Chúc Hoa Bình v.v…, vào núi Vân Cư. Tháng chín, có một số đệ tử tỳ kheo ni, nghe Ngài đến trú tại núi Vân Cư, liền tìm đường đến. Họ đi bằng thuyền và xe lửa để đến núi trong vòng nửa tháng. Cỏ rậm cao ngất, không có đường lộ cho người ngựa đi, nên họ men theo đường lộ hướng tây để leo lên núi. Trèo lên núi khoảng hai mươi dặm, họ đến Thạch Môn, nơi đã được khai hoang rộng rãi. Rồi từ từ, họ tiến vào chùa. Đầu tiên họ thấy tường vách đổ tan, hoang vu tàn rụi. Gặp một thiền sinh chỉ chỗ ở của Ngài, tức nơi am tranh. Họ cúi mình bước vào, thấy Ngài đang ngồi thiền trên băng ghế dài, trạng như nhập định. Ngài mở mắt ra, nói: “Tại sao chư vị khổ nhọc, lên đến tận đây?”

Họ thành thật kể lại lý do. Ngài lại nói tiếp: “Lúc mới lên, chỉ có bốn vị tăng, ý muốn kết am cỏ làm lều trú ngụ, chứ không muốn thọ nhận thêm đệ tử. Chưa đầy một tháng, đã có năm mươi vị lên đây ở. Bên ngoài am tranh, có vài ngôi nhà đổ nát. Chư vị đã đến đây, thì thôi hãy đến đó mà tạm trú trong vài mươi ngày.”

Am tranh của Ngài cách chùa khoảng nửa dặm, nằm về hướng tây bắc. Vân Công thích ngồi thiền tĩnh tọa nơi đó, lại có ý muốn trồng trọt rau cải cho tăng chúng trong vùng đất chung quanh. Sau tháng mười, tăng nhân khắp nơi, đổ dồn về thêm. Khẩu phần ăn của mỗi người dần dần giảm xuống còn hai chén cơm một ngày. May mắn, có cư sĩ Giản Ngọc Giai ở Thượng Hải, cúng dường tiền mua lương thực. Tăng chúng trên núi sống tạm qua mùa đông. Lúc ấy, Vân Công dự định sẽ khai khẩn đất hoang, cấy lúa trồng rau, cùng kiến lập, trùng tu lại chùa chiền. Mùa đông, Ngài được chùa Nam Hoa tại Triết Giang thỉnh đến truyền giới pháp.

This entry was posted in Tuyển Chọn. Bookmark the permalink.