Y, Bát của đức Phật

Bình bát mà vua Mị-chi phá vỡ không phải là bình bát của bốn vị Thiên Vương nói trên mà đó là một trong số những bình bát mà đức Phật đã dùng khi Ngài còn tại thế. Sách Pháp uyển châu lâm có nói đến một bình bát bằng đất do một vị thần núi dâng cho đức Phật sau ngày thành đạo. Trong suốt ba mươi tám năm sau đó, đức Phật luôn sử dụng bình bát này rất cẩn thận. Một lần nọ Ngài được quốc vương xứ Ma-kiệt¬đà thỉnh vào thành Vương Xá để thọ trai. Sau giờ ngọ hôm ấy, La-hầu-la mang bình bát này đến hồ Rồng để rửa nhưng chẳng may làm vỡ bình bát thành năm mảnh. Lúc ấy thay vì trách cứ La-hầu-la, đức Phật bèn vá lại bình bát và Ngài tiên đoán rằng trong tương lai, sau khi Ngài diệt độ có những người xuất gia không tôn kính và thọ trì giáo pháp, trong năm trăm năm đầu luật tạng bị chia thành năm bộ, giáo pháp thì bị chia thành mười tám bộ và đến lúc chánh pháp suy tàn, tam tạng thánh điển bị chia thành năm trăm bộ. Bình bát này về sau được các vị Đế Thích, Thiên Vương, Long Vương… tuần tự thờ phụng, cúng dường và cuối cùng được trao lại cho đức Phật Di-lặc trong tương lai.[19]

Một trong những sự kiện quan trọng liên quan đến việc truyền thừa y và bát của đức Phật Thích-ca cho đức Di Lặc trong tương lai đó là việc tôn giả Đại Ca-diếp nhập định lưu thân tại núi Kê Túc. Các tác phẩm Pāli không nói gì về sự kiện nhập diệt của tôn giả Đại Ca-diếp, riêng luận Ðại Tỳ-bà-¬sa và A-dục vương truyện có nói chi tiết về việc này như sau: Khi biết cơ duyên hoằng hóa đã mãn, Tôn giả quyết định vào núi Kê Túc nhập đại định đợi đến khi đức Di-lặc thành đạo sẽ trao lại y bát của đức Thích¬-ca. Trước khi lên núi, Tôn giả vào thành Vương Xá để từ biệt vua A-xà-thế. Lúc ấy nhà vua còn đang nghỉ nên Tôn giả một mình lên Kê Túc. Sau khi thức dậy, vua A-xà-thế bèn tìm gặp tôn giả A-nan và nhờ Tôn giả đưa mình đến đảnh lễ ngài Đại Ca-diếp. Khi cả hai đến núi Kê Túc, theo như lời nguyện của ngài Đại Ca-diếp, núi bỗng mở ra và cả hai cùng được chiêm ngưỡng và đảnh lễ tôn giả Đại Ca-diếp lần cuối.[20] Núi Kê Túc thuộc Bắc Ấn là nơi những người Phật tử thường đến chiêm bái. Theo ngài Pháp Hiển, nơi đây thường có các vị La Hán lai vãng, trong núi có nhiều hổ, báo và sư tử.[21] Ðại Đường Tây Vực ký của ngài Huyền Trang thì ghi lại rằng núi này cao chót vót, động sâu hun hút, cây cối chằng chịt, đường dốc chập chùng, người đời sau vì kính trọng tôn giả Đại Ca-diếp nên gọi núi này là Tôn Túc. Hai mươi năm sau kỳ kiết tập kinh điển, tôn giả Đại Ca-diếp biết mình sắp nhập diệt nên theo lời phú chúc của đức Phật vào núi này nhập định để sau này trao lại y báu cho đức Di Lặc.[22]

Việc tôn giả Đại Ca-diếp dâng y cho đức Di Lặc được thuật chi tiết trong kinh Phật thuyết Di Lặc đại thành Phật. Theo bản kinh này, khi đức Di Lặc vừa dùng thần lực mở núi Kê Túc, Phạm Vương liền dùng dầu thơm cõi trời xoa trán và thân của tôn giả Đại Ca¬-diếp. Tôn giả bèn ra khỏi Diệt tận định, trần vai phải, quỳ gối phải, thưa thỉnh và dâng y Tăng-già-lê của đức Thích-ca lên đức Di Lặc. Lúc ấy hội chúng của đức Di Lặc bèn bạch Ngài rằng vì sao hôm nay trên ngọn núi này có một chúng sanh đầu nhỏ như côn trùng, mặc y Sa-môn, lễ bái Ngài như thế. Đức Di Lặc bèn dạy các đệ tử Ngài rằng đừng nên khởi tâm khinh mạn người này. Đây chính là tôn giả Đại Ca-diếp, bậc đầu đà đệ nhất trong số một ngàn hai trăm năm mươi vị đệ tử thân cận của đức Phật Thích-ca, là vị Sa-môn tu hành rất tinh tấn, luôn thương tưởng những chúng sanh bần cùng, bậc tối thắng trong hàng trời, người… các ông nên một lòng chắp tay kính lễ vị ấy. Khi nghe đức Di-lặc dạy như vậy, cả hội chúng không còn thắc mắc, tất cả đều lễ bái tôn giả Đại Ca-diếp.[23]

Theo Đại trí độ luận, loài người sanh trong thời đức Di Lặc có thân hình to lớn và tuổi thọ cũng cao hơn nhiều so với loài người trong thời đức Thích-ca nên khi thấy tôn giả Đại Ca-diếp có thân hình nhỏ, đắp pháp phục và thi triển được thần thông cả hội chúng của đức Di Lặc đều kinh ngạc. Lúc ấy đức Di Lặc liền dạy các hàng đệ tử của mình rằng tuy thân nhỏ nhưng tôn giả Đại Ca-diếp đã thành tựu những pháp thù thắng, còn các ông là hàng lợi căn, thân hình to lớn há lại không thành tựu những công đức như thế sao. Khi đó cả hội chúng đều sinh tâm hổ thẹn, khiêm nhường. Đức Di Lặc nhân đó thuyết pháp giáo hóa khiến cho nhiều người chứng đắc thánh quả.[24] Điều đáng chú ý là dù chúng sanh sinh trong thời đức Di Lặc có thân hình to lớn hơn nhiều so với chúng sanh trong thời đức Thích-ca, nhưng tấm y mà tôn giả đại Ca-diếp dâng lên vẫn xứng hợp với đức Di Lặc. Điều này được ngài Đạo Nguyên, sơ tổ dòng Tào Động tại Nhật giải thích như sau: “Kích thước cơ thể của người phàm khác hẳn với kích thước cơ thể của đức Phật. Cơ thể của người phàm thì có thể đo lường còn cơ thể của đức Phật không thể đo lường được. Vì lý do đó nên y của Phật Ca-diếp xứng hợp với đức Phật Thích-ca, và y của đức Phật Thích-ca cũng xứng hợp với đức Phật Di Lặc”.[25]

Khi Thiền tông hưng khởi tại Trung Hoa, y, bát được xem là những biểu tượng thiêng liêng của chánh pháp và là vật truyền thừa tối quan trọng trong thiền môn. Truyền thống này bắt nguồn từ giai thoại đức Thế Tôn trao truyền chánh pháp nhãn tạng cho tôn giả Đại Ca-¬diếp trên hội Linh Sơn được ghi lại trong Vô môn quan.[26] Cảnh đức truyền đăng lục có chép rằng sau khi truyền tâm ấn cho ngài Huệ Khả, tổ Bồ-đề Đạt-¬ma còn truyền pháp y để minh định tông chỉ nhà thiền và xem đó như bảo vật để minh chứng cho sự truyền thừa từ một tổ sư Thiên Trúc cho một môn đồ đắc pháp Trung Hoa. Tổ Đạt-ma còn huyền ký rằng sau khi ngài diệt độ hai trăm năm, lúc người biết đạo thì nhiều mà hành đạo thì ít, nói lý thì nhiều mà tỏ lý thì ít, pháp y không được truyền thừa nữa.[27] Lịch đại pháp bảo ký cũng thuật lại rằng lúc trao pháp y cho nhị tổ Huệ Khả, tổ Đạt-ma căn dặn rằng ví như khi một vị Chuyển Luân Thánh Vương vừa lên ngôi được bảy món báu, việc truyền ca-sa là để biểu trưng cho sự truyền thừa chánh pháp.[28] Như thế việc truyền thừa y, bát trong Phật giáo, đặc biệt là trong Thiền tông ám chỉ cho sự truyền pháp của một vị thầy hay một thiền sư cho người đệ tử nào xứng đáng và đã đắc pháp với mình. Chúng ta có thể biết rõ hơn điều này qua việc ngài Phật-đà Bạt¬-đà-la truyền y cho ngài Tăng Triệu hay tổ Đạo Tín truyền y cho ngài Pháp Dung.

Truyền thống Thiền tông cũng cho rằng pháp y được truyền từ thời tổ Đạt-ma cho đến thời ngài Huệ Năng chính là tấm y mà đức Phật đã truyền lại cho tôn giả Đại Ca-diếp, người lãnh hội được yếu chỉ của thiền trên pháp hội Linh Sơn. Song theo huyền ký của tổ Đạt-ma nói trên cũng như trong kinh Pháp Bảo Đàn[29] khi được đệ tử Pháp Hải hỏi về việc truyền pháp y, ngài Huệ Năng đáp rằng cứ theo di kệ của tổ Bồ-đề Đạt-ma, sau khi Ngài viên tịch pháp y sẽ không được truyền thừa như trước nữa. Theo ngài Thần Hội, tại Ấn Độ, nơi có những bậc Cao tăng sống đời thanh bạch và nghiêm tịnh pháp y không được xem như là ấn tín. Việc truyền thừa y để ấn chứng chỉ xảy ra ở những nơi có quá nhiều người tham cầu tiếng tăm, lợi dưỡng, hay tranh cãi và sống thô tục, chẳng hạn như Trung Hoa.[30]

Ngoài ý nghĩa biểu trưng cho sự hiện hữu của đức Thế Tôn tại nhân gian, y và bát của đức Phật còn là một thông điệp đầy ý nghĩa đối với hàng đệ tử của Ngài. Trong sinh hoạt của Tăng đoàn việc thọ trì y và bát theo luật nghi là một điều tối quan trọng để hội chúng xuất gia được thanh tịnh và để kế thừa truyền thống chánh pháp của chư Phật trong nhiều đời. Phẩm hạnh của mỗi người xuất gia được hình thành một phần nhờ vào nếp sống thiểu dục, tri túc thông qua việc thọ nhận phẩm vật của người đời để nuôi thân và che thân. Y và bát của đức Phật hay của mỗi người xuất gia vừa là để phân biệt với lối sinh hoạt của người thế tục, nhưng đồng thời cũng nói lên chí nguyện, hoài bão mà người xuất gia đang hướng đến. Con người sở dĩ chịu quá nhiều đau khổ, tai ương là vì họ quá đam mê ngũ dục. Hình ảnh một bậc vương tử, một người tầm đạo khả kính nhất, một bậc đạo sư của ba cõi sống một cuộc đời thanh đạm với y phục hoại sắc và bình bát đơn sơ sẽ mãi mãi là hình ảnh cao đẹp và thâm thúy nhất đối với những ai đang thao thức về một lẽ sống thuần tịnh và thanh cao, những ai đang hướng về một lý tưởng trong sáng, và những ai đang tiếp bước trên con đường mà các bậc tiền nhân khả kính đã đi qua.

Thích Đồng Thành (Nguồn: TS. Pháp Luân số 30)

http://vinhnghiem.de
________________________________________

[1] Theo Chú Giải Kinh Bổn Sanh, vị Phạm thiên này vốn là một người bạn của thái tử trong thời Phật Ca¬diếp. Kinh Phổ Diệu còn ghi rằng khi trở về thiên giới, vị phạm thiên này đã xây một bảo tháp để thờ bộ y phục của thái tử.
[2] T 25n1509, tr. 538b.
[3] Căn Bổn Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ-nại-da Phá Tăng Sự, quyển 4, T24n1450, tr. 118a.
[4] S. Strong, Relics of the Buddha, New Jersey: Princeton University Press, 2004, p. 216.
[5] T4n203, tr. 470a. Tham khảo thêm Kinh Phân Biệt Cúng Dường, số 142, Trung Bộ Kinh.
[6] Kinh Tương Ưng, Phẩm Tương Ưng Ca-diếp XVI.
[7] T53n2122, tr. 560a-b.
[8] T51n2087, tr. 904b.
[9] Sđd, tr. 879a-b.
[10] Horner, I.B. The Minor An¬thologies of the Pali Canon, Part III, London: Pali Text Society, 1975, pp. 98-99
[11] Xem Đại Phẩm I, Bổn Sanh I, Ngũ Phần Luật, quyển 15, Tứ Phần Luật quyển 31, Căn Bổn Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Phá Tăng Sự, quyển 5, Phật Thuyết Thái Tử Thụy Ứng Bổn Khởi Kinh (T3n185, tr. 479a), Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh, quyển 3 (T3n189, tr.643b), Phật Bổn Hạnh Tập Kinh, quyển 32 (T3n190,tr.801b-c), Phương Quảng Đại Trang Nghiêm Kinh, quyển 10 (T3n187, tr. 601a), Phổ Diệu Kinh, quyển 7 (T3n186, tr. 526b-c).
[12] Cao Tăng Pháp Hiển Truyện, T51n2085, tr. 858b-c.
[13] Đại Đường Tây Vực Ký, T51n2087, tr.879c.
[14] Sđd, tr. 865c.
[15] T12n392, tr. 1114b-c.
[16] Cao Tăng Pháp Hiển Truyện, tr. 865c.
[17] Liên Hoa Diện Kinh, T12n386, tr. 1076a.
[18] Sđd, tr. 1075c.
[19] T53n2122, tr.1008b-c.
[20] T50n2042, tr. 114c. T27n1545, tr. 698b
[21] T51n2085, tr. 864a.
[22] T51n2087, tr. 919b-c.
[23] T14n456, p. 433b-c.
[24] T 25n1509, tr. 79a.
[25] B. Faure, “Quand L’habit Fait Le Moine: The Symbolism of the Kāṣāya in Sōtō Zen” in Chan Bud¬dhism in Ritual Context, Ed. B. Faure, London: Routledge Curzon, 2003, p. 214.
[26] T48n2005, tr. 293c.
[27] T51n2076, tr. 219c.
[28] T51n2075, tr. 181a-b.
[29] T48n2008, tr. 361a.
[30] J. Kieschnick, The Impact of Buddhism on Chinese Material Cul¬ture, New Jersey: Princeton Univer¬sity Press, 2003, pp. 106-107.

This entry was posted in Tùy Bút. Bookmark the permalink.