Lễ tế thần của người miền núi
Tết của người Kơro ở cao nguyên Trung phần sau tết của người thành thị một tháng, gọi là Tết Lir Bong. Lir Bong là “Mừng lúa về”. Nó bắt đầu vào khoảng tháng Ba dương lịch. Thóc vừa gặt xong, tha hồ nhàn rỗi, chờ đến mùa mưa mới cày cấy cho vụ sắp tới.
Tết “Mừng lúa về” được tổ chức hàng năm. Họ rào làng tránh cướp bóc, sửa sang đường sá, giếng nước, trồng cây nêu v.v… Lễ được khai mạc vào buổi chiều khi mặt trời đã lặn. Trống kèn khua vang, gà, vịt, dê, lợn được mang ra tế lễ dâng cúng Thượng đế với lời cầu nguyện: “Khẩn cầu Thượng đế nhận lời cảm tạ của mọi người. Thượng đế đã ban phúc cho dân làng, dân làng có thóc ăn quanh năm. Xin ban phát cho mọi người được sức khỏe dồi dào để làm việc nhiều hơn cho mùa sau. Kết quả càng tốt đẹp”. Lời cầu nguyện vừa xong, chủ tế chém chết những con vật, lấy huyết vẩy lên cửa nhà, vạt thóc, giạ lúa,… sau đó mang ra làm cỗ đãi khách. Suốt đêm chuông trống vang lừng khắp nơi. Họ tin tưởng may mắn sẽ đến vào những ngày kế tiếp(1).
Tết của đồng bào Di Linh, một năm không nhất định bao nhiêu ngày. Ngày tết của họ thay đổi từ làng này sang làng khác. Sự thay đổi khiến họ có thể dự tết nhiều nơi. Tết là một ngày hoàn toàn ở gia đình. Nghi lễ chỉ tổ chức trong phạm vi nhà cửa và vựa thóc. Gà được lấy máu vẩy lên các bồ thóc để cầu thần linh cho những hạt giống sinh sôi nẩy nở… Những con lợn bị giết và đem thui, ruột gan đựng riêng để tế thần. Đêm xuống, trong vựa thóc chỉ còn leo lét ánh lửa thui lợn như ánh lửa nấu bánh chưng của dân đồng bằng thành thị.
Phong tục tuy có khác nhau, nhưng nói chung, tết xưa ở miền núi thường đi kèm với máu của súc vật, kèn trống, hét hò và những bình rượu lớn.
Cổ tục làng Tích Sơn
Trai làng Tích Sơn đến mười tám tuổi đều được làng cử nuôi một con gà ngay từ đầu năm trước, để đầu xuân năm sau có gà tế thần. Họ phải săn sóc vỗ béo sao cho gà được nặng cân.
Ngày mùng ba tết, tất cả đều khăn đóng áo dài mang gà ra đình làm lễ. Mỗi người ôm gà của mình sắp hàng chỉnh tề trước đình. Đợi các vị tiên chỉ trong làng khấn vái xong, các chàng trai ôm gà nhảy nhót và vái lễ trước bàn thờ. Sau đó, từng người một dùng dao chém đứt đầu gà, tiết gà được hứng riêng, thân gà mang ra nhổ lông làm thịt. Phân gà có khi vãi cả ra bàn thờ cúng thần khi bị chặt đầu.
Ngoài tục chém gà còn có tục chém lợn. Lợn cũng được vỗ béo và dẫn ra đình. Nó được tắm rửa sạch sẽ và thả đi vòng vòng trước bàn thờ để trình Đức Thành hoàng. Trình lợn xong, một thanh niên cầm gươm phang vào đầu lợn. Phải biết cách chém nhanh, chém mạnh, gươm phải thật bén để đầu lợn đứt lìa ngay nhát chém đầu tiên. Đang tung tăng, bị một nhát gươm, lợn không kịp kêu, máu từ cổ phun ra, thân lảo đảo rồi ngã quỵ.
Có cổ tục này là do dân làng Tích Sơn chịu ảnh hưởng vị thần mà họ đang dâng lễ tế. Tương truyền, lúc sinh tiền ông là một tên tướng cướp. Khi bị dân làng đuổi tới chân núi thì cùng đường. Bị vây hãm quá đói, sẵn có con lợn ngang qua, ông chém ngang mà ăn sống v.v… Sau, do chết vào giờ linh(?) ông được dân làng tế tự như vị thần giữ làng(2). Nhân tích ăn lợn đó mà có lễ dâng lợn vào đầu xuân hàng năm.
Tục dâng rượu ở làng Yên Đổ
Với cái nhìn của người thế gian, không có rượu thì không có lễ, nên trong việc tế tự, đa phần đều có rượu đi kèm. Riêng ở làng Yên Đỗ, rượu mang dâng thần phải là loại rượu thật đặc sắc, được các lão làng tế tự tuyển chọn kỹ càng mới được dâng cúng.
Việc cúng kiếng ở thành thị
Xuân ở thành thị, từ xưa đến nay vẫn văn minh hơn. Gà, vịt, heo, bò tuy vẫn bị giết, nhưng máu của chúng đều được rửa sạch. Không thể để dấu vết của sự chết chóc tồn tại đâu đó trong nhà cửa hay trong chốn làm ăn vào những ngày đầu năm. Thật kinh hoàng khi đâu đó xuất hiện một vài giọt máu, dù của súc vật. Xem ra, thứ mà ngày xưa dân miền núi gọi là điềm may, nay lại được coi như điềm bất hạnh với dân thành thị. Xét cho cùng “may” hay “không may” chỉ là vọng tưởng của con người.
Đa phần mọi nhà đều có tục làm cơm rước ông bà vào cuối năm. Người người lau rửa, sơn sửa nhà cửa sạch đẹp để chuẩn bị đón mừng năm mới. Thức ăn đồ uống cũng được dự trữ đầy đủ trong ba ngày tết. Phần do chợ búa ngày xưa không mở bán trong những ngày đó, phần mọi người đều tin rằng sự sung túc đầy đủ đầu năm là điềm báo cả năm được sung túc dư dả. Mọi người còn nhắc nhau phải vui vẻ, không được nhăn nhó gay gắt để cả năm được an bình. Bực bội, la hét hay khóc lóc phải được kiêng cữ tối đa trong ba ngày tết. Mùng ba tết có lễ làm cơm tiễn ông bà.
Lễ tết, ngoài cơm nước thịnh soạn, còn có bánh chưng, bánh tét, tiền lì xì, rượu, chè v.v… Tùy phong tục của từng miền mà nhà nhà sắm sửa sao cho thịnh soạn để cả năm được sung túc an lành.
Lợi ích của tế tự qua cái nhìn của Đức Phật
Việc tế tự, dù cho chư thiên hay các vị thần linh, cũng đều biểu trưng cho lòng biết ơn và thành kính của con người đối với những gì mà họ đã nhận được trong cuộc sống của mình. Dù việc tế tự mang tính cầu xin là không đúng với chánh kiến, nhưng bản thân việc tế tự lại mang tính bố thí và lòng biết ơn, nên cái quả của nó vẫn có liên quan ít nhiều đến sự sung túc.
Trong kinh Trường bộ quyển I, bài kinh số 5, khi được Bà-la-môn Kutadanta hỏi về cách thức tế tự và các tế vật, Phật đã trả lời gián tiếp bằng câu chuyện tế tự của vua Mahàvijita. Trong đó, vị Bà-la-môn chủ tế đã vạch định cho vua Mahàvijita các điều kiện thiết yếu để ông có thể gặt được cái quả hạnh phúc an lạc dài lâu trong tương lai:
1/ Mời tất cả những vị Sát-đế-lị, chư hầu các tỉnh thành, các đại thần cùng quyến thuộc, các gia chủ phú hào (Phật gọi chung là bốn đại chúng) tham dự, như việc chứng thành cho buổi lễ tế đàn được thành tựu.
2/ Vua Mahàvijita cần có 8 đức:
– Thiện sinh từ mẫu hệ lẫn phụ hệ.
– Huyết thống thanh tịnh đến bảy đời tổ phụ, không một lời dèm pha nào đối với vấn đề huyết thống.
– Sắc diện và phong thái phải thanh cao tuấn nhã.
– Tài bảo sung túc, thương khố sung mãn.
– Có uy lực, đầy đủ bốn loại quân chủng chinh phục địch quân.
– Có tín tâm, từ tâm, chuyên làm công đức cho Sa-môn, Bà-la-môn, kẻ bần cùng…
– Bác học trong mọi vấn đề.
– Có thể suy tư tinh thông các việc từ quá khứ cho đến vị lai.
3/ Vị Bà-la-môn làm chủ tế đàn phải có đầy đủ năm đức:
– Thiện sinh từ mẫu hệ lẫn phụ hệ.
– Huyết thống thanh tịnh đến bảy đời tổ phụ, không một lời dèm pha nào đối với vấn đề huyết thống.
– Là nhà phúng tụng, trì chú, thông hiểu ba tập Veda với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và lịch sử truyền thống.
– Có biệt tài về thuận thế (tự nhiên học) và xem tướng bậc đại nhân.
– Là nhà bác học tinh thông, sáng suốt với đầy đủ giới hạnh và đức độ cao dày.
4/ Trước khi tế lễ, vị Bà-la-môn chủ tế cần căn dặn vua Mahàvijita ba pháp “không nên”:
– Trước khi lễ tế đàn xảy ra, không nên hối tiếc “phần lớn tài sản ta đã tiêu hao…”.
– Trong khi đang làm lễ tế đàn, không nên hối tiếc “phần lớn tài sản ta đã tiêu hao…”.
– Sau khi làm lễ tế đàn, không nên hối tiếc “phần lớn tài sản ta đã tiêu hao…”.
Nói chung, không khởi tâm hối tiếc đối với việc tế đàn dù với bất kỳ lý do gì.
Vì sao không nên hối tiếc đã được Phật nói trong phẩm Địa chủ, kinh Tăng nhất A-hàm quyển I. Nhân duyên cúng dường bố thí tuy đưa đến cái quả sung túc cho thí chủ, nhưng bố thí rồi mà khởi tâm hối tiếc thì dù được quả báo sung túc vượt bực, cũng không hưởng được quả ấy, cũng không được vui trong ngũ dục(3).
5/ Vị Bà-la-môn khuyến khích vua lập tế đàn với nội tâm hoan hỷ an vui. Dù việc bất như ý nào xảy ra, nhà vua vẫn nên giữ nội tâm hoan hỷ.
6/ Trong lễ tế đàn, không có trâu, bò, dê, cừu, gà, heo bị giết. Cũng không có loại sinh vật nào bị sát thương. Không có cây cối bị chặt để làm trụ cột tế lễ. Không có cỏ cát tường bị cắt để rải chung quanh. Các kẻ gia bộc, làm thuê không bị dọa nạt đánh đập khiến cho sợ hãi, khổ nhọc. Tế đàn được hoàn tất chỉ với dầu, sinh thô, thục tô, mật và đường miếng.
Không có thú vật v.v…, vì đánh đập và sát sanh là nhân đưa đến bệnh tật, nạn tai và yểu tử. Cho nên, muốn có sức khỏe thì không nên giết hại súc vật để tế đàn. Chỉ cần không sát sinh v.v… thì không cần có trụ tế đàn hay cỏ cát tường rải quanh, cát tường vẫn đến. Đó là lý do vì sao trong việc tế lễ, Đức Phật dạy không có thịt súc vật dâng cúng, cũng không có sự dọa nạt đánh đập. Bởi từ tâm là nhân giúp thoát được mọi nạn tai.
Làm được một tế đàn như thế thì cuộc sống của chúng ta sẽ được hạnh phúc an lạc dài lâu. Song với những điều thiết yếu cần có của một lễ tế đàn như thế không phải ai cũng làm được. Vì thế, Kutadanta hỏi tiếp:
– Thưa Tôn giả Gotama, có tế đàn nào ít phức tạp, ít phiền nhiễu mà lại nhiều quả báo và lợi ích hơn cách tế đàn như thế?
– Đó là bố thí thường xuyên, những tế đàn thuận lợi, cúng dường cho các vị xuất gia có giới đức.
Quả báo bố thí lệ thuộc vào ba thứ là tâm người bố thí, phẩm vật bố thí và giới hạnh người được bố thí. Bố thí thường xuyên, là đủ duyên liền bố thí, không đợi phải lập đàn tràng. Người cần liền bố thí. “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Đó là ruộng phước tốt, tâm người bố thí cũng tốt. Cúng dường cho các vị xuất gia có giới đức cũng là ruộng phước tốt, là gieo nhân với Tam bảo để được sự hộ trì của Tam bảo.
Kutadanta lại hỏi tiếp:
– Thưa Tôn giả, có tế đàn nào ít phức tạp, ít phiền nhiễu mà lại nhiều quả báo và lợi ích hơn là bố thí thường xuyên, những tế đàn thuận lợi, cúng dường cho các vị xuất gia có giới đức?
– Đó là xây dựng tinh xá cho Tăng chúng tu tập.
– Thưa Tôn giả, có tế đàn nào ít phức tạp, ít phiền nhiễu mà lại nhiều quả báo và lợi ích hơn là xây dựng tinh xá cho Tăng chúng tu tập?
– Đó là thành tâm quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Này Bà-la-môn! Tế đàn này ít phiền hại mà lại được quả báo lợi ích nhiều hơn các cách tế đàn trên.
– Thưa Tôn giả, có tế đàn nào ít phức tạp, ít nhiễu hại mà lại nhiều quả báo và lợi ích hơn là quy y Tam bảo?
– Đó là thành tâm giữ gìn 5 việc không sát sinh, không trộm cắp, không nói dối, không tà dâm và không uống rượu. Giữ được 5 việc đó là tế đàn mang lại hạnh phúc và an lạc dài lâu cho con người.
Tùy mức độ giữ gìn mà ta có được hạnh phúc và an lạc nhiều hay ít, dài hay ngắn. Đây là tế đàn mà tất cả ai cũng có thể thực hiện cho chính bản thân, kể cả những người không thuộc đạo Phật, để có được hạnh phúc và an lạc dài lâu.