Phật Học Ngụ Ngôn – Bách Dụ Kinh

30. NGƯỜI CHĂN DÊ

Xưa có người khéo chăn dê, mỗi ngày một sinh-sản ra nhiều.

Một hôm có người khéo nói dối, dùng phương-tiện đến kết làm bạn thân với người ấy: “Nay tôi cùng anh rất thân, chúng ta coi nhau hai thân như một. Anh ạ, tôi biết nhà ông kia có cô gái trẻ, đẹp lắm, tôi quyết-định sẽ hỏi cô ta về làm vợ anh đấy!” Người chăn dê nghe sướng quá đem cho người kia rất nhiều dê và của-cải.

Ít lâu người kia lại tới nói: “Anh ạ, vợ anh đã đẻ được một con rồi đấy!” Người chăn dê chưa biết mặt vợ mình ra sao nhưng, nghe nói đẻ con rồi mừng quá lại đem cho người kia các vật khác.
Sau người kia lại bảo: “Anh ạ, con anh chết rồi!” Người chăn dê nghe thấy thế khóc lóc, nghẹn-ngào mãi không thôi.

Người đời tu hạnh đa-văn (nghe, học nhiều) nhưng, vì danh-lợi, không chịu giáo-hóa diễn-thuyết cho người. Do đó, bị ngay thân này lừa-dối, hướng về sự vui sướng ở đời … làm mất pháp lành; sau mất thân mệnh cùng của-cải sinh ra lo-buồn, khổ-não, khóc-lóc thương-tiếc … như người chăn dê kia vậy!.

31. THUÊ MƯỚN THỢ NGÕA

Xưa có ông thầy Bà-la-môn muốn mở đại-hội mới bảo các đệ-tử: “Thầy cần ít đồ sành để cung-dụng trong đại-hội, các con ra chợ thuê-mướn cho thầy một người thợ ngõa đi!”

Các đệ-tử vâng lời đến nhà thợ ngõa thấy một người dắt con lừa chở các đồ sành ra chợ bán, không hiểu sao, trong giây lát con lừa làm vỡ hết cả. Người ấy về nhà khóc-lóc, áo-não. Những đệ-tử kia thấy thế mới hỏi: “Sao ông buồn rầu áo-não vậy?” Người kia đáp: “Tôi cần-khổ bao năm mới làm được ít đồ đem ra chợ bán, trong giây lát con lừa tệ-ác này nó làm vỡ hết của tôi, nên tôi buồn!” Những đệ-tử kia nghe, mừng bảo: “Con lừa này tốt, ông làm đồ bao năm mà chỉ trong giây lát nó làm vỡ hết được. Nay chúng tôi muốn mua con lừa này của ông, ông bán cho chúng tôi nhé!” Người thợ ngõa thích quá, bán ngay con lừa cho những người ấy.

Cưỡi lừa về nhà, thầy hỏi: “Sao các con không mướn thợ ngõa về, lại đem lừa về làm gì?” Các đệ-tử đáp: “Thưa thầy, con lừa này giỏi hơn thợ ngõa ạ! Thợ ngõa bao năm mới làm nên ít đồ sành, thế mà chỉ trong giây lát con lừa này nó đánh vỡ hết được!” Ông thầy nói: “Các con ngu quá, không hiểu biết chi cả, con lừa này tức thời có thể làm vỡ nhiều được nhưng, dù trăm năm nó cũng không làm được cái gì!”

Người đời, trăm năm hưởng-thụ sự cúng-dàng của người không đền trả được gì, không làm được sự lợi-ích nào, thường làm những việc tổn-hại là người bội-ân vậy!

32. KHÁCH BUÔN TRỘM VÀNG

Xưa hai người khách buôn cùng đi buôn với nhau một nơi. Một người bán vàng và một người bán vải tốt. Có người đến mua vàng, lấy ít vàng đốt thử, người bán vải liền ăn trộm ngay chỗ vàng thử kia, lấy vải gói lại. Vì vàng vừa đốt còn nóng, cháy hết cả vải. Sự-tình bại-lộ, hai đàng đều mất cả.

Ngoại-đạo ăn trộm chính-pháp của Phật, chép vào trong pháp của mình nói dối là mình có, chứ không phải là pháp của Phật. Do đó, sách của ngoại-đạo bị thiêu-diệt, không lưu-hành ở đời được. Như người trộm vàng, sự-tình đều hiện cũng thế!

33. CHẶT CÂY HÁI QUẢ

Xưa ông vua nọ có một cây cao lớn, nhiều quả ngon. Một hôm có người lại chỗ nhà vua, nhà vua bảo: “ Trên cây này có nhiều quả ngon lắm, người muốn ăn, trèo lên hái mà ăn!” Người ấy đáp: “Tâu Đại-vương, cây này cao lớn quá, tôi muốn ăn nhưng không sao hái được!” Nhà vua bảo: “Tùy đấy, làm sao hái được quả ăn thì làm!” Người ấy liền chặt ngay cây, hy-vọng được quả ngon. Nhưng, quả ngon không được, lại mệt thêm và sau cùng muốn dựng cây lên cho sống, thời cây đã chết khô.

Người đời cũng thế, nơi Phật có cây trì giới hay sinh ra những quả thù-thắng Tâm-ý vui mừng, muốn được ăn quả ấy phải trì-giới và tu mọi công-đức. Nhưng, không biết phương-tiện lại hủy-giới cấm, như người ngu kia chặt cây rồi muốn sống lại sao được!

34. DÂNG NƯỚC NGỌT

Xưa có một làng cách kinh-thành năm do-tuần [12]. Trong làng có giếng nước ngọt, nhà vua bắt những người trong làng mới bảo mọi người rằng: “Xin tất cả mọi người đừng đi, để tôi vào tâu vua xin đổi năm do-tuần làm ba do-tuần, cho mọi người được đi, lại gần, không mệt!” Nói rồi người kia vào tâu vua. Nhà vua liền đổi làm ba do-tuần. Mọi người vui mừng. Có người bảo: “Con đường này vẫn năm do-tuần có thay-đổi gì đâu!” Tuy họ nghe nhưng họ vẫn không tin, họ chỉ tin lời vua, quyết không bao giờ thay-đổi.

Người đời tu-hành chính-pháp, qua khỏi năm đường: Thiên, Nhân, địa-ngục, ngã-quỷ, súc-sinh, hướng về Niết-bàn, tâm sinh mỏi-mệt, chán-ngán muốn bỏ, đi vào đường sinh-tử, không thể tiến lại được. Đức Phật có nhiều phương-tiện: trong pháp Nhất-thừa (Phật-thừa), phân-biệt ra Tam-thừa (Tiểu, Trung, Đại-thừa). Người Tiểu-thừa nghe được, vui mừng cho là dễ làm; tu thiện, tiến đức, cầu qua sinh-tử. Sau nghe người nói không có Tam-thừa chỉ có Nhất-thừa nhưng, họ tin lời Phật quyết không chịu bỏ. Như người làng kia cũng thế!

35. GƯƠNG TRONG RƯƠNG BÁU

Xưa có người nghèo mang nợ nhiều quá, không trả được, sợ trốn vào trong cánh đồng rộng. Đến đây, người ấy thấy một cái rương đựng đầy châu-báu, có tấm gương để trên những châu-báu ấy, đậy nắp. Trông thấy mừng quá, người ấy mở nắp ra coi, thấy bóng trong gương sợ quá, chắp tay nói: “Tôi tưởng rương không, không có gì, không biết có ngài ở trong rương này, xin ngài tha-thứ lỗi-lầm cho tôi. Xin đừng giận tôi!”

Người phàm-phu bị vô-lượng phiền-não làm cùng-khốn, chủ nợ ma-vương sinh-tử ràng-buộc. Muốn tránh sinh-tử vào trong Phật-pháp tu-hành pháp lành, làm các công-đức, như gặp rương báu nhưng, bị gương “thân-kiến” (tư-tưởng cố-chấp thân mình) mê-hoặc, nhiễu-loạn, lầm tưởng là có “ta”, liền đóng kính lại và cho là chân-thực. Do đó, mất mọi công-đức, thiền-định đạo-phẩm, các pháp lành vô lậu (không còn bị sinh-tử) cùng đạo-quả Tam-thừa. Như người ngu bỏ rương báu, những người tham-trước ngã-kiến cũng thế! [13]

36. KHOÉT MẮT ÔNG TIÊN

Xưa có người vào núi học đạo thành tiên, được năm phép thần-thông [14], có thiên-nhãn [15] trông suốt tất cả, thấy được hết thảy của báu chôn dưới đất.

Có ông vua nghe biết, vui mừng, bảo quần-thần: “Làm sao mời được vị Tiên ấy về ở luôn trong nước ta, không đi đâu, làm cho kho-tàng nước ta được nhiều của báu!” Khi ấy, có một viên quan ngu-si, đến chỗ vị Tiên ở, tìm phương-tiện khoét hai con mắt của vị Tiên ấy mang về, tâu vua: “Bầy tôi khoét mắt của vị Tiên ấy đem về đây, mục-đích là để vị ấy ở luôn trong nước, không đi đâu nữa!” Nhà vua bảo: “Ta sở-dĩ mong được vị Tiên ấy ở luôn trong nước là vì vị ấy thấy được những châu-báu chôn dưới đất, nay ngươi khoét mắt còn làm gì được!”

Người đời, thấy người ta làm hạnh Đầu-Đà [16] khổ-hạnh, nằm nơi núi rừng, đồng vắng, mồ-mả, gốc cây …, tu “tứ-ý-đoạn” [17] và :bất-tịnh-quán” (quán-sát thân thể không trong sạch), bèn cưỡng-bách đem về nhà cúng-dàng mọi thứ, hủy mất pháp lành của người ta, khiến đạo-quả của người ta không thành. Mất mát đạo-nhãn, mất mát thiện-lợi, hoàn-toàn không được gì như viên quan ngu kia, hủy mắt vị Tiên vậy!

37. GIẾT CẢ ĐÀN TRÂU

Xưa có người có hai trăm năm mươi con trâu thường đuổi đi tìm cỏ ngon ăn. Một hôm có con hổ ra ăn mất một con, người chủ đàn trâu nghĩ: “Nay mất một con không còn đủ đàn, còn những con kia nuôi làm gì!” Nghĩ rồi, người ấy đuổi tất cả trâu đi, con thì lăn xuống hố sâu, con lần lên ghềnh núi rơi xuống dần dần chết cả.

Phàm-phu ngu-si thụ-trì đầy-đủ giới-pháp của Phật, bị phạm một giới, không sinh tâm thẹn-hổ, thanh-tịnh sám-hối [18], nghĩ: “Ta chót phá một giới không còn đầy-đủ, ta giữ làm gì nữa!” Thành hết thảy mọi giới phá hết. Như người ngu kia làm chết hết đàn trâu, không còn con nào vậy!

38. UỐNG NƯỚC ỐNG MÁNG

Xưa kia có người đi đường khát quá, thấy ống máng gỗ có dòng nước trong chảy qua, người ấy tới kiếm uống. Uống nó, người ấy giơ tay bảo ống máng: “Ta uống đủ rồi nước đừng chảy nữa!” Dù nói thế nước vẫn chảy như cũ, người ấy cáu nói: “Ta uống rồi, bảo mi đừng chảy nữa, sao mi cứ chảy?” Có người gần bên nghe thấy bảo: “Người ngu-si quá, không biết chi cả, sao ngươi không đi đi, lại bảo nó đừng lại…!”

Người đời, vị sự khát-ái sinh-tử, uống nước mặn ngũ-dục và đã bị ngũ-dục làm mỏi-mệt chán-ngán như người kia uống nước đủ rồi, liền nói: “Ngũ-dục: sắc, thanh, hương, vị, xúc các ngươi đừng lại để ta trông thấy nữa!” Song, ngũ-dục cứ nối-tiếp nhau không dứt; thấy lại, cáu bảo: “Ta đã bảo mi diệt ngay đừng sinh nữa, sao mi còn lại đây làm cho ta trông thấy?” Khi ấy, có người trí-tuệ thấy thế bảo: Ngươi muốn tránh dục-vọng, ngươi cần nén-dẹp sáu tình [19], ngăn-đóng tâm-ý, thời tưởng càn không sinh, liền được giải-thoát, hà-tất không thấy “dục” mới không phát-sinh. Như người ngu uống nước cũng thế! [20]

39. THẤY NGƯỜI TRÁT NHÀ

Xưa có người đến nhà người khác, thấy nhà cửa tường-vách của họ trát (tô) đất-cát bằng-phẳng, sạch-sẽ, đẹp-đẽ, liền hỏi: “Ông trát vách bằng gì mà đẹp thế?” Chủ-nhân đáp: “Tôi dùng vỏ trấu, ngâm nước nhào lẫn với bùn rồi tôi trát vào vách mà được thế!”

Người ngu nghĩ: “Vỏ trấu không bằng lấy toàn thóc nhào với bùn mà trát vách sẽ trắng, sạch, bằng-phẳng và đẹp hơn!” Nghĩ rồi, người ấy về lấy thóc nhào lẫn với bùn rồi đem trát vách. Người ấy hy-vọng vách sẽ bằng-phẳng. Ngờ đâu lại thành chỗ cao, chỗ thấp, nứt-nẻ, hư-phí thóc, không lợi-ích gì, không bằng ra ơn bố-thí cho người sẽ được nhiều công-đức hơn.

Phàm-phu nghe bậc Thánh-nhân thuyết-pháp, tu-hành mọi điều thiện, xả thân này sẽ sinh lên trời cùng được giải-thoát, liền tự sát mình mong được sinh lên cõi trời, được giải-thoát. Uổng mất thân mình không được gì cả, như người ngu kia vậy!

This entry was posted in Phật Giáo. Bookmark the permalink.