Nẻo về của ý – Chương 10
STEVE ơi, cái nhà của mình ở đường 109 đã được trả lại cho người ta rồi phải không? Thương quá đi! Chúng ta đã trải qua biết bao nhiêu vui buồn trong đó. Và đối với tôi, tôi không bao giờ có thể quên được bất cứ một chi tiết nào trong nó. Steve không nói nhưng tôi biết là sau khi tôi đi rồi Steve đã phải bắt buộc trả lại cái nhà đó để đi mướn một gian phòng khác, bởi vì một mình Steve làm sao trả được tiền nhà, tiền điện, tiền nước, và bao nhiêu thứ lặt vặt nữa liên hệ tới một cái nhà.
Nơi mà tôi đang ngồi viết cho Steve đây là một ngôi nhà lợp bằng lá dừa nước, một thứ cây mọc đầy ở rạch, các bưng, các vũng sình lầy ở miền Nam nước Việt. Vách của nó được trộn bằng đất bùn trộn lẫn rơm khô. Kín lắm, và cũng đẹp nữa. Chắc chắn là Steve chưa bao giờ thấy những cái vách trát bùn như vậy. Trước hết người ta lấy tre chẻ ra, gọt hai đầu, lắp vào các cây cột gỗ quanh nhà rồi lấy lạt buộc lại thành những tấm lưới tre chắc chắn. Sau đó đất bùn được lấy dưới sông lên, trộn với rơm khô. Bữa ấy tôi có yêu cầu các bác nông dân pha thêm tí xi măng vào cho chắc. Người ta lấy rơm bùn quấn vào các nẹp của tấm lưới tre cho các mắt lưới được bịt kín lại và cuối cùng lấy đất bùn trét lên cho phẳng. Những cái vách khi khô rồi cũng trắng bệch ra, nom rất đẹp. Ở đây là đồng quê, gió lộng nhiều, nhất là vào buổi chiều, nên làm vách như thế này thì kín và ấm lắm. Bây giờ là buổi sớm mai. Tôi ngồi viết trước một chiếc cửa sổ ngó ra đồng. Nắng vừa lên phía bên trái là đồng lúa còn con gái. Trước mặt cách tôi chừng năm trăm thước là một cái rạch sình lầy xanh um lá dừa nước. Bên phải có xóm làng với những cái chuồng trâu cao ráo, sát ngay rạch dừa nước. Đất miền này nhiều phèn lắm, và nhằm mùa nắng vấn đề nước uống là một vấn đề gay go. Tuy gần sông, nhưng mà vào mùa nắng thì nước mặn. Ở đây chỉ cách Saigon chừng mười cây số nhưng đã yên tĩnh và dễ chịu hơn Saigon nhiều lắm rồi. Tôi về đây từ hồi hôm. Dạy học ra muộn cho nên tới đầu cầu giáp giới của làng thì đã thấy trăng tròn nằm trên đọt cây dừa trên sông rồi. Gió trên cầu mát rượi. Tôi đi thong thả vào làng. Ở Việt Nam, những làng như thế này là tương đối an có an ninh lắm. Tôi đã vừa được ngủ một đêm thanh tịnh ở vùng quê. Tuy thỉnh thoảng tiếng súng trong đêm vẫn nghe rõ mồn một.
Khu vực nhà tôi đang nói cho Steve nghe đây là một thí điểm làm “làng” của chúng tôi được khởi sự vài tuần lễ sau ngày tôi về tới quê nhà. Chúng tôi gọi nó là “làng tự nguyện đầu tiên”. Đó là mẫu làng mà chúng ta đã bàn bạc nhiều với nhau trong lúc rỗi rảnh đó, Steve. Bây giờ nó đã thành sự thực. Ba tiếng “làng tự nguyện” gợi cho chúng ta hình ảnh một khu làng mà trong đó dân chúng tự tổ chức lại nếp sống kinh tế, giáo dục và y tế của họ theo xn tiêu chuẩn phát triển cộng đồng. Họ chấm dứt thái độ tiêu cực và trông chờ, phải có những người bạn có óc tổ chức, có kiến thức căn bản về sinh hoạt xã hội nông thôn sống ngay trong xóm làng, làm chất men cho tinh thần tự nguyện phát khởi. Ở khu làng thí nghiệm này, chúng tôi đã được dân làng chấp nhận như anh em bà con của họ, cái nhà mà tôi đang ở đây là một cái nhà bốn gian, ba gian là trường học, một gian là trạm y tế. Tất cả đều do các nông dân trong làng tạo dựng, với sự có mặt của chúng tôi. Nói cho đúng, chỉ có hai người con trai là Tâm Quang và Tâm Thái là ở thường trực trong làng, còn tất cả chúng tôi chỉ về thỉnh thoảng để học hỏi và thực tập. Chúng tôi cũng vừa mới mở một địa điểm thực tập khác, không xa lắm. Đây là ấp Thảo Điền.
Chắc chắn nếu Steve có ở đây thì Steve sẽ thích lắm. Nhưng mà Steve chưa thể qua đây được đâu. Hãy học cho xong chương trình mà em đang theo đuổi đã. Tôi cũng đã suy nghĩ về vấn đề để cho Steve qua đây theo học tại trường đại học Saigon để tìm hiểu thêm về văn hóa Việt Nam. Nhưng mà sau tôi nghĩ: Steve phải học xong chương trình ấy trước khi qua. Vấn đề không giản dị như chúng ta đã bàn với nhau ở Nữu Ước. Sự có mặt một người Mỹ như Steve trong nhóm chúng tôi hiện bây giờ chưa có lợi gì cho công việc. Và nhận thức của quần chúng về vấn đề cố nhiên là chưa chín chắn gì cả.
Steve, tôi về tới phi trường Tân Sơn Nhất vào một buổi trưa nóng bức. Đáng lẽ tôi tới Saigon chậm hơn thế, vì theo lộ trình đã định sẵn, máy bay của chúng tôi phải ghé Vọng Các trước. Nhưng sương mù không cho phép máy bay ghé xuống Vọng Các và do đó tôi tới Saigon sớm hơn một tiếng đồng hồ. Khi bánh xe máy bay chạm đất, tôi thấy lòng rung động. Phương Bối chỉ cách đây chưa đầy hai trăm cây số! Bốn giờ đồng hồ xe hơi thì tôi có thể trở về. Trở về với miền rừng núi quen thuộc với chiếc nôi mây êm đềm đã từng che chở cho chúng tôi trong một thời gian bão táp, đã từng un đúc và nuôi dưỡng chúng tôi trong bao năm tháng rộng dài.
Sau một thời gian gần ba năm trời sống trong một khung cảnh khác hẳn với xã hội Việt Nam, tôi đa trở về và đã được thức tỉnh lại một cách đầy đủ bằng những hình bóng thật quen thuộc, thật giản dị. Dọc theo con đường dài từ phi trường Tân Sơn Nhất về nhà, tôi chứng kiến lại một cách hiện thực tình trạng chậm tiến của xứ sở này. Những dãy nhà còn lụp xụp ngỗn ngang, đầy nhóc những người, những bác xa phu cong lưng đạp xích lô, mồ hôi nhễ nhại. Tôi còn nhớ rõ cái lưng áo rách toang của một bác xa phu. Bác này uể oải đạp một chiếc xích lô cũ kỹ không có khách. Chắc chắn là bác đã ngồi trên yên quá lâu nên hai mông của bác đã đau và mỏi. Bác đang ngồi trên một cái mông để cho mông bên kia được thong thả, và do đó bác chỉ đạp xe bằng một cái chân trái. Thỉnh thoảng bác mới thay sang bên kia và đạp xe bằng chân này cho đến khi nào có khách gọi bác mới phanh lại và ngồi ngay ngắn để đưa khách. Tôi thấy bọn trẻ con ở trần và chạy chơi chân đất trên hè phố. Tôi trông thấy những đống rác, những xe nước mía, những chiếc xe gắn máy vừa chạy vừa rú lên như những con vật dữ bị thương. Thành phố Saigon đây rồi, thành phố Saigon lấm tấm mang thêm một cách vụng về những nhà lầu những căn phố có đường nét và mầu sắc Mỹ. Dân nông thôn đã đổ xô lên Saigon quá nhiều. Chắc chắn là vùng quê ít chỗ có được an ninh. Những hình ảnh đó khiến tôi nao nao. Việt Nam đang ở trong một giai đoạn lịch sử quyết liệt. Không biết chúng tôi có thể làm được cái gì để đóng góp vào trong cái hướng đi mới của một dân tộc vừa thoát khỏi một chế độ độc tài hay không.
Steve, ngay tối hôm đó, tôi phải nghe nhiều chuyện buồn rồi. Ngồi ở chùa Trúc Lâm với mấy mươi người bạn trẻ tuổi, tôi đã lắng tai nghe những câu chuyện không lấy gì làm vui lắm ấy. Những người quân nhân đã không biết cách nắm lấy cơ hội và khí thế dâng lên của quần chúng để tạo một sức mạnh đi tới. Những người tăng sĩ Phật giáo, choáng ngợp bởi thái độ khâm phục và mến chuộng của quần chúng đối với đạo Phật đã trở nên tự thị tự mãn đáng ghét. Thật là một hiểm họa cho đạo Phật. Một cuộc pháp nạn thứ hai đang khởi đầu mà ít ai biết đến. Người trí thức, người thanh niên sau khi khám phá ra tiềm lực đạo Phật trong quần chúng, đã tìm tới với những vị tăng sĩ, và đã thất vọng… Một số đông đảo những người có tham vọng, những người theo cơ hội chủ nghĩa, đã đến tràn ngập tự viện và bao quanh những nhà lãnh đạo Phật giáo. Sự có mặt của họ xung quanh các thầy đã khiến người trí thức và những người có lòng đặt những câu hỏi. Rồi thì Phật giáo, chính Phật giáo trong cơ hội ngàn năm một thuở của nó, cũng không biết tìm cách để tự phát triển và đống góp phần mình vào cho sự tạo nên một nẻo thoát cho tình trạng đã từng bế tắc trong gần hai mươi năm qua.
Tôi đã ngồi nghe họ rất lâu, Steve. Rồi tôi an ủi họ. Chúng ta đừng thất vọng. Chúng ta sẽ đóng góp phần của chúng ta. Sức chúng ta bé nhỏ, nhưng lòng của chúng ta không bé nhỏ. Hãy tự biến mình thành một chút men để dậy lần lần khối bột to lớn. Chúng tôi đã thức trọn đêm đó, chia xẻ vưói nhau những lo âu, những hy vọng. Những ngày ở lại Paris tôi đã phải đầu tắt mặt tối với các bạn bên ấy. Tiếp đó là một chuyến đi mệt nhọc và một đêm thức trọn. Tôi mệt mỏi quá và đã ngủ suốt một buổi sáng kế tiếp. Đến mười một giờ trưa, tôi mới dậy để ăn “điểm tâm” do Toàn sửa soạn.
Steve ơi, chiều ngày hôm ấy tôi đi thăm những gốc cây, những bụi tre của chùa Trúc lâm và nghe Toàn kể chuyện Sen Hái Đầu Mùa và những hoạt động của các bạn trẻ trong thời tôi vắng mặt. Buổi tối ấy lại có một cuộc họp mặt thứ hai, và trong cuộc họp mặt này chúng tôi đã tìm ra được một vài nguyên tắc để làm việc. Sáng hôm sau, tôi một mình tìm về Phương Bối, mang theo một cái xắc nhỏ. Tôi tìm một chiếc xe Minh Trung ở bến xe đường Pétrus Ký và thoải mái thoát khỏi Saigon. Những cánh rừng, những vườn cao su, và những cánh rừng khác nữa. Rồi Định Quán. Rồi núi, rồi đèo, và cuối cùng rừng B’su Danglu hiện rõ trước mặt Đại Lão Sơn, Đại Lão Sơn quen thuộc đã tới gần. Tôi bảo xe ngừng ở cây số 190 và ung dung xách túi leo lên ngọn đồi bên trái. Qua đồn điền Đại Hà, tôi ghé vào. Không có ai ở nhà cả. Đồn điền có vẻ hoang vắng. Chắc gia đình bác Đại Hà đã để lại một vài người làm công để coi sóc nhà cửa và vườn tược. Những người này có lẽ là đang ở ngoài vườn. Tôi đưa tay lên miệng hú vài tiếng nhưng không có ai trả lời cả. Tôi xách túi tiếp tục leo qua chiếc đồi thứ hai. Lau lách choán cả đường đi. Con đường quen thuộc ngày xưa nay có vẻ hoang vắng lạ thường. Rừng có vẻ huyền bí hơn và nguy hiểm hơn. Vượt khỏi khu rừng xanh tôi bắt đầu trèo đến cái dốc cao nhất. Cầu Mai đã xuất hiện nơi giữa rừng. Vài thân cây bắt ngang qua cầu đã gãy đổ, tôi phải bước cẩn thận. Lạ quá, tôi nhận ngay ra con đường từ cầu Mai lên Thiền Duyệt Thất. Con đường vẫn đẹp, vẫn quyến rũ, vẫn đầy đủ phong độ như cách đây ba bốn năm trời. Có dấu tích của sự phát dọn. Ai đã lên đây trong những ngày như thế này nhỉ. Tôi vừa đi vừa suy nghĩ. Nhưng kìa, tôi đã đi đến chỗ rẽ vào lối Thiền Duyệt Thất. Tôi nhìn lên Thiền Duyệt Thất. Và tôi sửng sốt. Một người đang đứng ở cạnh Thiền Duyệt Thất, tay cầm một cái xà gạc, nhìn xuống phía tôi. Steve biết đó là ai không? Trời ơi, chính là Nguyên Hưng, Nguyên Hưng bằng xương thịt! Vừa lúc đó thì Nguyên Hưng cũng kịp nhận ra tôi. Chúng tôi gọi tên nhau. Tôi chạy lên, và Nguyên Hưng cũng bỏ xà gạc, chạy xuống. Chúng tôi gặp nhau ở giữa sườn đồi, trên con đường dốc lên thất Thiền Duyệt.
Tôi hỏi Nguyên Hưng: sao Nguyên Hưng lại ở đây? thì ra cái lúc tôi mới về Saigon, Nguyên Hưng đang ở Đalat. Nghe tin tôi về, Nguyên Hưng không xuống Saigon mà lại tìm tới Phương Bối vì biết rằng thế nào tôi cũng phải tìm lên Phương Bối. Mà quả thật Nguyên Hưng đã nghĩ đúng. Dù ai nói Đông nói Tây, tôi vẫn bất chấp những sự nguy hiểm, và đã tìm về Phương Bối. Chúng tôi đã thực hiện một cuộc gặp lý thú – tuy là hẹn gặp nhưng kỳ thực thật đã là một sự bất ngờ đối với tôi. Nguyên Hưng đã nói gì với tôi, Steve có biết không? Nguyên Hưng bảo rằng từ hôm qua khi về tới Phương Bối, Nguyên Hưng dã tự tay phát dọn con đường từ cầu Mai lên Phương Bối, cả xung quanh ngôi nhà Phương Bối và Thiền Duyệt Thất nữa. Nguyên Hưng bảo nếu không làm như thế thì Phương Bối sẽ điêu tàn quá và sẽ gây xúc động cho lúc tôi trở về. Hảo ý của Nguyên Hưng, tôi trông thấy rõ. Chính trong giờ phút tôi tới Phương Bối, Nguyên Hưng còn đang phát dọn xung quanh Thiền Duyệt Thất.
Nhà Thượng đã bị cháy rụi trong một tai nạn gây nên do việc đốt rừng không cẩn thận của người Thượng. Leo lên đỉnh đồi Thượng, tôi nhìn đống than và những cái xác cột nám đen nằm ngổn ngang trước mặt với một niềm cảm thương, than kia là di tích của chiếc nhà Thượng xinh đẹp ngày xưa, nơi chúng ta trải qua bao giây phút êm đềm, ấm áp. Hòa Bình, chúng ta sẽ làm lại nhà Thượng, tôi nói với Nguyên Hưng như thế, sau một hồi trầm ngâm, bằng một giọng quả quyết. Nguyên Hưng có lẽ cũng được an ủi bằng câu nói đó, cho nên gật đầu vui vẻ. Chúng tôi xuống đồi, đi thăm mọi nơi. Thật ra Phương Bối rất có lòng. Ngày tôi về, khóm hồng phía trước còn nở cho ba chiếc hoa đỏ chói. Cây mimosa góc nhà đã lớn và rất xanh tốt. Mấy gốc thông tôi trồng ngày xưa cũng rất xanh và đã lên cao.
Chúng tôi đi dần về phía rừng Tham Thiền. Tấm bảng có những chữ “Đại Lão Sơn Phương Bối Am” ở phía trước vẫn còn nguyên vẹn. Nét chữ vẫn rõ ràng, xương kính. Nước sơn tốt quá, đã năm sáu năm rồi chưa tróc. Tôi cúi nhặt một trái thông, và thấy phảng phất hương của hoa chiều. Chúng tôi tìm được bụi hoa, bứt một ôm những cành hoa có bông trắng xóa và đem lên cúng Phật. Bàn Phật của chúng tôi tang thương quá: lâu ngày không có ai dọn dẹp, bụi đất và lá khô phủ đầy.
Chúng tôi bẻ một ít cành cây quét dọn cho sạch sẽ và dâng bó hoa tươi dưới chân Phật mà nét thủy mạc đã phai mờ. Phương Bối am đã để trống lâu ngay, và tất cả các cửa đều mở để cho những kẻ tò mò ghé qua đây khỏi phải mất công phá cửa, bẻ khóa. Chúng tôi ngồi yên lặng giờ lâu trên gác tham thiền trong tư thế cầu nguyện. Rồi chúng tôi trở ra, khép nhẹ cánh cửa. Thời toàn thịnh của Phương Bối đã qua rồi. Còn đâu với những đêm giao thừa với những đống lữa vĩ đại trên đỉnh đồi Thượng. Còn đâu những buổi bình văn sang sảng ở nhà Thượng, những cuộc đàm thoại đầy hứng thú về những vấn đề tâm linh xã hội. Chúng tôi trở nên yên lặng hơn sau giờ phút tĩnh tâm cúng Phật.
Trên hồ nước, trên vách tường, tôi đọc những câu biểu ngữ viết bằng than đen. Những câu biểu ngữ chống đối nhau của hai bên. Nguyên Hưng cho biết rằng một hôm nọ họ bắn nhau dữ dội tại cầu Mai. Những xác chết gần cầu Mai. Rồi những cuộc hành quân kế tiếp. Chính sau biến cố đó, bác Đại Hà đã di cư về tỉnh lỵ. Chỉ còn lại, trong ấp chiến lược bên kia trũng một số gia đình nghèo phải bám lấy mảnh đất đã khai thác.
Nhà Phương Bối xơ xác và hoang lạnh. Các tủ sách của chúng tôi đã được chở về Đại Hà từ lâu, những bàn ghế và vật dụng khác đều cũng được chuyển về Đại Hà. Có nhiều nhóm đã vào đốt củi thức đêm trong các phòng. Thôi nhé, Steve, thôi đừng ấp ủ cái mộng về Phương Bối sống với chúng tôi nữa nhé. Đúng là thời thịnh vượng của Phương Bối đã qua rồi. Phương Bối giờ đây thương tích đầy mình, bây giờ đầy tủi thân và cô độc. Những buổi sáng sương mù, những buổi chiều trong vắt, Phương Bối một mình hoang vắng như một cái tổ chim xác xơ, những con chim đã bay đi cả rồi. Những con chim tuy có ước mong trở lại nhưng mưa gió không cho chúng trở lại.
Chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau trên hồ nước cho đến chiều. Phương Bối thật êm ả, dù trong lòng chúng tôi hơi lo. Nguyên Hưng rủ tôi trở lại Đại Hà trước khi chiều xuống. Chúng tôi chia nhau mấy cái bánh bột nếp mà tôi mang theo trong túi xách vừa đi xuống đồi vừa ăn. Chúng tôi tìm về Bảo Lộc bằng xe “lam” và ngủ đêm ở đó để sáng sớm trở về Saigon.
Steve ơi, mấy tháng sau đó vì nhớ Phương Bối quá cho nên chúng tôi lại tìm lên núi Đại Lão. Lần này chúng tôi lên đông có tới mười người. Chúng tôi đều bị một toán linh vây bắt. Sau mấy giờ đồng hồ, chúng tôi được thả, và từ đó, chúng tôi không lên thăm Phương Bối được nữa. Ngồi đây viết cho Steve tôi biết rằng Phương Bối đang âm thầm và cô quạnh chịu đựng. Những như biết bao nhiêu làng mạc bao nhiêu núi sông đang âm thầm và cô quạnh chịu đựng. Cuộc chiến càng ngày càng trở nên ác liệt và không ai không mông ước cho nó chấm dứt càng sớm càng hay. Chiến tranh gây thương tích khăp nơi trên đất nước và cũng gây thương tích trong mỗi chúng tôi. Hình ảnh Phương Bối trong lòng chúng tôi cũng là hình ảnh của một vết thương. Đúng làmột vết thương.
Tôi sẽ ở lại đây cho đến hết ngày, Steve. Hôm nay chủ nhật, trường học đóng cửa. Ngôi trường của chúng tôi tên là Chim Sơn Ca. Và trạm y tế gọi là trạm Tình Thương. Lát nữa tôi sẽ vào trong xóm để tìm hiểu thêm về đất cát ở đây. Buổi chiều thế nào cũng có một số bạn trẻ về làm việc mà nghiên cứu. Chúng tôi để khá nhiều công phu vào việc nghiên cứu và thực hiện cải tiến sinh hoạt của những khu làng thí nghiệm này. Chúng tôi phải tìm ra cho được những phương thức hữu hiệu để thực hiện công cuộc cải tiến sinh hoạt nông thôn. Tương lai đất nước chúng tôi tùy thuộc vào rất nhiều ở những nỗ lực hiện tại để cải tiến xã hội nông thôn. Chủ quyền độc lập của xứ sở chúng tôi như Steve đã biết chỉ có thể đảm bảo khi nào chúng tôi có thể đứng vững trên hai chân của chúng tôi. Như vậy có nghĩa là chúng tôi phải tiến tới một nền kinh tế độc lập vững chãi. Nếu Steve ở đây, Steve sẽ nhận thấy rằng xứ sở của chúng tôi không nghèo. Xứ sở chúng tôi có nhiều tài nguyên chưa khai thác được. Đi thăm miền đồng bằng rồi lên thăm miền cao nguyên. Steve sẽ thấy điều đó là đúng. Chúng tôi phải cải tiến nông nghiệp, nhất định phải đặt nhiều rất nhiều cố gắng ở công cuộc cải tiến nông nghiệp vì nền kỹ nghệ mới phát triển của chúng tôi đang cần đến sự phát triển nông nghiệp. Nông dân cần cung cấp nguyên liệu cho các ngành kỹ nghệ và cũng cần tiêu thụ những sản phẩm của các ngành kỹ nghệ ấy một cách rộng rãi. Có như thế các ngành kỹ nghệ mới được nuôi dưỡng và phát triển trong những bước đầu còn non yếu của mình và quốc gia mới khỏi phải tốn một số ngoại tệ nhập cảng những hóa phẩm để thêm vốn đầu tư vào các ngành kỹ nghệ đang cần được phát triển. Như thế, nông nghiệp cần được hướng dẫn để tự cải tiến về phương diện kỹ thuật lẫn thị trường. Mà sự cải tiến nông nghiệp lại có liên hệ mật thiết đến những vấn đề y tế, giáo dục và tổ chức. Cho nên một cuộc cải tiến toàn diện cần được thực hiện trên ý thức cộng tác của toàn dân. Steve cũng biết rằng trong hàng chục năm qua, người dân đã nghe quá nhiều những hứahẹn cải tiến xã hội nhưng nếp sống cơ cực vẫn hoàn cơ cực. Thêm vào đó, chiến tranh làm cho ruộng vườn hư nát, làm cho cơ nghiệp sụp đổ, làm cho an ninh bị đe dọa. Viện trợ của Hoa Kỳ đủ sức giữ cho nền kinh tế ấy không sụp đổ, nhưng viện trợ ấy càng làm cho Việt Nam phải bám víu vào Hoa Kỳ hơn lên. Chiến tranh đã phá hủy nhiều thứ và không để cho Việt Nam gượng lại để đứng vững trên hai chân kinh tế của mình.
Steve hẳn còn nhớ những lúc chúng ta bàn luận về vấn đề cảm thông giữa người Á Đông và Tây Phương. Chính tôi lắm khi cũng cảm thấy khó khăn khi dùng những phương tiện diễn đạt tư tưởng và tình cảm với Steve. Người Pháp đã ở với người Việt vần một trăm năm. Đã có trường Ecole Francaise d’Extrême-Orient đã hiểu tông chỉ, tính tình người Việt thế mà vẫn không hiểu người Việt mấy tí; thế thì người Hoa Kỳ trong một thời gian ngắn làm sao hơn được. Cứ tin vào thông kê, cứ tin vào dự án, cứ tin vào phương pháp toán học quá. Những thứ đó áp dụng ở cái xứ này không thành công, hoặc chưa thành công đâu, Steve ơi. Tôi về làng, làm việc ở làng lâu rồi tôi biết. Phương pháp làm việc ở đây chắc chắn phải là những phương pháp khác hẳn với những điều người ta học được ở một đại học đường ở Tây Phương. Cho nên giấy tờ, thống kê, dự án đã có thể, trong rất nhiều trường hợp, là những mảnh giấy giúp người ta hợp thức hóa cách tiêu tiền bất hợp pháp. Các ông bộ trưởng, các ông giám đốc cho đến những nhân viên thừa hành của một cái chính quyền chỉ lo kiếm tiền, đều đã làm như thế, và đã khinh thường đến nỗi có một vài đỗ vỡ và bại lộ.
Tôi xấu hổ về một số những người đồng bào tôi khi tôi kể cho Steve nghe điều đó. Nhưng mà tôi phải kể, bởi vì tôi phải giải nghĩa cho Steve nghe tại sao phải bắt đầu trở lại các công việc mà ông Diệm đã hô hào và đã bắt đầu nhiều năm trước. Người dân quê đã bị đánh lừa nhiều lần khiến họ không còn tin tưởng ở một lời hứa hẹn đường mật nào nữa. Họ đã bị lợi dụng. Và họ đã sợ hãi phần đông những người cán bộ mà họ tiếp nhận từ trung ương: Những người này thực chỉ vì một số lương bổng mà trở thành “chiến sĩ – xã hội”. Họ ăn mặc chững chạc, về nông thôn hoặc các “ấp chiến lược” và ở lại đó mấy giờ rồi rút lui. Trong khi ở lại, họ chẳng làm được việc gì đáng kể. Họ chỉ tuyên truyền qua loa chính quyền, và được đào tạo cấp bách, non nớt, không hiểu được tâm lý quần chúng, không có tâm niệm phụng sự, họ nói và làm những điều phật ý nông dân. Họ hống hách khó chịu. Họ đi nghênh ngang dùng súng để bắn chim để dọa nạt và cũng để dân chúng sợ giật nẩy mình. Thế rồi họ rút lui, để lại ấn tượng không tốt trong lòng thôn dã. Họ rút lui bởi vì họ đâu dám ở đêm ở những vùng nông thôn. Mấy ông cán bộ phía trong thì khôn ngoan hơn nhiều. Họ ăn mặc đồ đen giống hệt nông dân. Họ “tam cùng” với nông dân khi họ về một nhà địa phương nào đó. Họ có thể ẳm con, quét tước, rửa bát hay ra đồng gặt lúa với nông dân. Tối đến họ ngủ lại, và chuyện trò. Những cán bộ nhân vị làm sao ăn đứt được họ, hả Steve? Đó là một trong nguyên do cho ta thấy rằng tại sao chính quyền ông Ngô Đình Diệm càng ngày càng bị thua lực lượng mặt trận giải phóng. Những “cán bộ” “nhân vị” làm sao ăn đứt được họ, hả Steve.
Chắc Steve đã nghe nói đến nhiều lần về những ấp chiến lược. Những ông cố vấn từ Hoa Kỳ sang xem bộ tin tưởng ở chúng lắm. Nhưng mà những ấp chiến lược chỉ đẹp đẽ và hữu hiệu trong lý thuyết. Trên thực tế, chúng hư nát hết. Lý do là người ta đã xây dựng chúng bằng tiền bạc và bằng bạo lực. Người Mỹ đã tin tưởng quá ở mãnh lực đồng tiền và chính phủ của ông Diệm, đã tin tưởng quá ở sức mạnh bạo lực. Thành trì của những ấp chiến lược, không được xây dựng bằng sự tự nguyện và bằng cộng tác, đã tan rã như những cánh bèo. Steve nên biết rằng ấp chiến lược lập ra, trên lý thuyết, là để tập trung dân chúng lại thành từng vùng có kiểm soát có phòng thủ để ngăn ngừa sự xâm nhập và tác động của những người bên kia. Những vùng nào khả nghi thì bị giải tỏa trước. Có những vùng được giải tỏa một cách đột ngột để dân chúng không thể đem ra theo bất cứ một thứ tài liệu nào. Một buổi sáng nào đó, người ta biết gọi tất cả dân chúng, già trẻ trai gái, ra hết ngoài khu vực “ấp chiến lược” trong đó họ sẽ có đất cất nhà mới, vật cất nhà mới, để trồng trọt và luôn cả tiền bạc để sinh sống cho đến lúc có thể tự túc được. Rồi người ta phóng hỏa đốt trọn khu ấy. Đốt như thế để mà tiêu hủy tất cả những thứ nguy hiểm mà ta nghĩ là có thể có rất nhiều trong khu xóm. Dân đau xót và phẫn uất. Steve phải biết: nhà nào cũng có những kỹ niệm tuy đơn sơ nhưng rất thân thiết. Như cái bát hương, cái bài vị, mồ mã của người thân, hoặc những tờ di chúc hãy kỷ niệm vui buồn khác. Tiền bạc đâu có thể thay thế cho những thứ ấy? Họ thất thểu ra đi tới khu đất mới và ở đó, họ được hướng dẫn bởi những người cán bộ của chính quyền để “làm lại cuộc đời”. Họ nhận đôi chút tiền bạc và sống nhục nhã dưới sự hống hách của bạo lực.
Mà nào họ đã được yên thân trong “ấp chiến lược”. Những người bên kia, mà bên này gọi là Việt Cộng, đâu có vì thế mà bị gạt ra ngoài. Họ có mang cái huy hiệu hay cái đồng phục nào đâu để chúng ta nhận ra họ. Thế là họ cũng vào ấp, sống lẫn lộn. Và một buổi sáng nào đó, người ta có thể thấy, trong phòng họp của ấp một trái mìn, một trái mìn bằng gỗ thôi, một trái mìn giả, có mang dấu hiệu Việt Cộng. Thế là cái hàng rào kẽm gia xung quanh ấp trở thành vô nghĩa. Trái mìn kia nói thay cho một lời dọa nạt: Có chúng tôi đây, các anh liệu hồn. Giả sử trái mìn thật thì các anh nghĩ sao?
Vậy là tinh thần phòng thủ của ấp đã lung lay. Một trận giặc mà không có trận tuyến như thế, làm sao có thể đánh bằng súng đạn không mà được?
Ấp chiến lược, như Steve thấy, nhắm tới một mục tiêu quân sự và chính trị chứ không nhắm tới mục tiêu xã hội. Chính vì thế mà những tuyên truyền về cách mạng xã hội đều không được ai nghe theo. Chúng tôi thấy rõ điều đó và đã quyết định với nhau rằng một phong trào dựng lại xứ sở cần được đặt trên một căn bản hoàn toàn khác biệt. chúng tôi muốn mở một mặt trận chống lại nghèo đói, ngu dốt, bịnh tật và vô tổ chức.
Chúng tôi hiện có hai làng thí điểm tại miền Nam, hai làng tại miền Trung – một tại Khánh Hòa, một tại Thừa Thiên. Chúng tôi, trong thời gian đầu cũng bị người dân nhìn với những cặp mắt lạnh lùng. Thái độ họ là thái độ khép kín, nghi ngờ. Dù anh tuyên truyền gì cũng vô ích. Họ lạnh và cứng như một tảng thép nguội. Đó là hậu quả của những công trình “cách mệnh xã hội” đi trước. Chúng tôi hết sức kiên nhẫn, khiêm cung và cẩn trọng. Sau một thời gian, thái độ đó thay đổi. Đến lúc mà họ nở một nụ cười vồn vã, mình thấy ấm áp cả tâm hồn. Họ trở thành cởi mở, sốt sắng. Họ hưởng ứng và tham dự vào các dự án một cách chân thành. Được họ chấp nhận, mình thấy như con đường đi tới thành công được rút ngắn lại một phần trăm. Mà Steve ạ, chính lúc cộng tác với họ để thực hiện các dự án cải tiến sinh hoạt, ta mới thấy được khả năng và tiềm lực của xã hội nông thôn trong công cuộc tạo dựng một đời sống tiến bộ.
Xã hội chúng tôi đã bị phân hóa quá, bởi vì chiến tranh đã tàn phá đức tin, tàn phá hy vọng, tàn phá mọi công trình kiến thiết lâu dài. Ngày nay quần chúng nghi ngờ mọi thiện chí, mọi hứa hẹn. Chúng tôi nhận thấy ngoài chất liệu tôn giáo, không còn có chất liệu nào có thể tạo dựng được đoàn kết tính và xã hội tính. Cho nên phải xử dụng cho được tiềm lực tôn giáo để thực hiện những sự chuyên đổi lớn. Đạo Phật có thể đóng góp nhiều vào việc này. Nhưng mà chưa thể nương tựa vào những người có trách nhiệm lãnh đạo các giáo hội đâu. Họ có bảo thủ tư kiến nhiều quá và khó chuyển hóa quá. Dự án tôi đề nghị với Viện Hóa Đạo về kế hoạch xã hội hóa đạo Phật đã không được chú ý. Hiện giờ nó vẫn còn nằm trong hồ sơ của Viện Hóa Đạo. Chúng tôi phải bắt đầu từ chỗ tự lực để tranh thủ một sự chấp nhận sau nầy của quần chúng và của giáo hội nữa. Của quần chúng trước, đó là điều dĩ nhiên. Ở Âu Châu và ở Hiệp Chủng Quốc, hiện tượng đó không lạ gì. Chúng tôi đã làm xong một dự án về một tổ chức đào tạo những “Làng tự nguyện”. Những người này sẽ được huấn luyện kỹ lưỡng, có đủ kiến thức về xã hội về tôn giáo và nhất là về phương pháp thực hiện các dự án chống nghèo đói, bệnh tật, ngu dốt và vô tổ chức. Họ sẽ hành động không vì lương bổng, quyền hành mà vì tình thương ý thức và trách nhiệm và ý thức tự nguyện. Họ sẽ là những người thanh niên cũng như Steve, cũng như Nguyên Hưng vậy, có đức tin, có chí nguyện biết khinh thường nếp sống trưởng giả và cầu an, biết tìm hạnh phúc trong phụng sự. Chỉ với chất liệu tâm lý do chí nguyện đó, họ mới có thể thành công. Mà những người trai trẻ như thế, Steve, không hiếm ở đất nước này đâu. Tôi dám chắc với Steve là có hàng vạn hay hàng chục vạn. Tôi đã gần gũi họ trong những ngày gần đây, và đã thấy trong mắt họ sáng lên trong niềm tin mới. Chỉ trong mấy tháng nữa chúng tôi khai giảng trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, và ngôi trường này sẽ là một trường chuyên nghiệp thông thuộc một viện đại học trẻ trung vừa mới thành lập. Ban giảng huấn của trường gồm toàn những người trẻ tuổi, tất cả đều nao nức về công việc sắp thực hiện. Chúng tôi không có tiền bạc, nhưng chúng tôi đã có kế hoạch và rất nhiều thiện chí, Steve có nghe không?