11. Tôn giả Rahula (La-hầu-la)
Tôn giả là con trai của Thái tử Siddhattha (Sĩ-đạt-đa) và Công chúa Yasodara (Da-du-đà-la). Khi đức Phật trở lại thăm hoàng cung lần đầu tiên, Tôn giả được xuất gia cùng với các hoàng thích. Bấy giờ Tôn giả được giao cho hai Tôn giả Sàriputta và Moggallàna hướng dẫn.
Tôn giả còn nhỏ tuổi (chừng mười tuổi) nên thường lười biếng, ít chịu nỗ lực tu tập, thường bị đức Phật quở trách. Sau đó, nhờ sự lưu tâm giảng dạy đặc biệt của hai Ðại Tôn giả và của đức Phật, Tôn giả rất siêng năng tu học và đắc A-la-hán, được đức Phật khen là đệ tử ưa thích học tập đệ nhất. Từ đó Tôn giả giữ phần việc giảng dạy cho các tân Tỳ-kheo. Tôn giả tịch trước ngày thế Tôn nhập diệt.
12. Tôn giả Annà Kodannà (A-nhã Kiều-trần-như)
Tôn giả sanh tại Donavatthu gần thành Kapilavatthu, thuộc gia đình Bà-la-môn nổi tiếng. Tôn giả là một Ba-là-môn thông tuệ được vua mời vào cùng với bảy vị khác xem tướng cho Thái tử Siddhattha vừa ra đời. Tôn giả đã đoán về sau Thái tử sẽ là một vị Phật. Tôn giả đứng đầu trong năm vị Tỳ-kheo cùng Thái tử (Bồ-tát) tu khổ hạnh tại Uruvela. Thấy Bồ-tát bỏ lối tu khổ hạnh, cả năm vị bỏ Bồ-tát mà về Baranasì. Khi Thế Tôn thành đạo, cả năm vị đều được Thế Tôn hóa độ trong lần chuyển Pháp luân đầu tiên tại Isipatana, Migavana (Lộc Uyển), tại Baranasì. Cả năm Tôn giả sau đó đều đắc A-la-hán (năm ngày sau).
Như vậy Tôn giả Kodannà là vị Tỳ-kheo đầu tiên và là vị A-la-hán đệ tử đầu tiên của Giáo hội. Sau đó, tôn giả xin phép Thế Tôn về ẩn tu trong rừng sâu tại Saddantavana, gần hồ Mandàkini. Mười hai năm sau, Tôn giả trở lại bái biệt Thế Tôn rồi về nơi ẩn trú trong rừng mà nhập tịch.
13. Tôn giả Revata (Li-bà-đa)
Tôn giả là em ruột của tôn giả Sàriputta. Khi Tôn giả Sàriputta gia nhập Giáo đoàn, mẹ Tôn giả ép Tôn giả lập gia đình. Trong ngày cưới, người ta chúc Tôn giả sống lâu như bà nội của Tôn giả. Bấy giờ bà nội đã quá già, yếu đuối, bệnh hoạn, Tôn giả nghĩ rằng rồi vợ Tôn giả sẽ như thế mà kinh sợ. Tôn giả bỏ trốn đi ngay khi ấy, xin xuất gia với đức Phật. Sau khi nhận pháp từ Thế Tôn, Tôn giả vào ẩn cư trong rừng, nỗ lực thiền định rồi đắc A-la-hán. đức Phật khen Tôn giả là vị Ðộc cư thiền tịnh đệ nhất.
14. Tôn giả Pindola Bhàradvàja (Tân-đầu-lô Phả-la-đọa)
Tôn giả thuộc gia đình Bà-la-môn, con vị giáo sĩ hoàng gia của vua Udesa xứ Kosambi; Tôn giả tinh thông Phệ-đà, rất được giới thanh niên sùng mộ. Tôn giả chán nản bỏ đi đến Ràjagaha xin xuất gia với đức Phật. Ðược Phật giảng dạy, Tôn giả tinh cần tu học và đắc A-la-hán. Tôn giả luận giảng rất hay, phá được nghi ngờ của quần chúng. Ðức Phật khen Tôn giả là vị đệ tử đệ nhất rống tiếng rống sư tử.
15. Tôn giả Maha Kappina (Ðại Kiếp-tân-na)
Tôn giả là vua xứ Kukkuta, ham học hỏi, thường mời các nhà thông thái đến để tham luận. Tôn giả nghe các thương gia từ Savatthi đến kể rằng có đức Phật đang thuyết giảng và họ giới thiệu với Tôn giả về Tam Bảo. Tôn giả liền dẫn một đoàn tùy tùng đến tham bái đức Phật. Tất cả đều đắc A-la-hán và trở thành các Tỳ-kheo đệ tử Phật. Về sau, do Phật yêu cầu, Tôn giả thuyết pháp cho chúng Tỳ-kheo, độ được nhiều vị đắc Thánh quả. Ðức Phật khen Tôn giả là vị Giáo giới đệ nhất.
16. Tôn giả Katiyàyana
Tôn giả sinh tại Ujjaynì, trong một gia đình giáo sĩ hoàng gia cho các vua họ Avanti. Chính Tôn giả cũng là Giáo sĩ của vua Candapradyota. Theo lệnh vua, Tôn giả đến thỉnh đức Phật về Ujjayinì giảng Pháp. Khi đến nơi, Tôn giả được Phật độ và đắc A-la-hán. Ðức Phật ủy nhiệm Tôn giả thay đức Phật về lại Ujjiayinì thuyết pháp. Vua rất khen ngợi Tôn giả. Từ đó Tôn giả truyền bá Chánh pháp, mở rộng Tăng-già tại Ujjayinì. Sau đó Tôn giả đến sống gần đức Phật và thường đi thuyết pháp ở vùng châu thổ sông Hằng (Ganges). Tôn giả là một luận sư tài danh, được xem là một vị tổ của học phái A-tỳ-đàm. (Ghi chú: Tôn giả Katiyàyana ở đây khác với Tôn giả Katiyàna trong Trưởng lão Tăng Kệ – Thera. 45).
17. Tôn giả Upasena (Ưu-bà-tiên-na)
Cũng như Tôn giả Revata, Tôn giả là em của Trưởng lão Sàriputta. Sau khi xuất gia, Tôn giả sống theo hạnh đầu đà, giữ giới luật rất nghiêm khắc và đắc A-la-hán. Tôn giả sống trong một hang đá, một hôm bị một con rắn độc cắn, biết mình sắp chết, Tôn giả gọi Trưởng lão và các vị đồng tu khác, nhờ đem tôn giả ra khỏi hang, đặt ở ngoài trời, sắc mặt Tôn giả vẫn bình thản cho đến khi nhập tịch.
Người ta kể rằng sau đó thân thể Tôn giả bay lên không trung rồi biến mất. Ðức Phật thường khen gương đạo hạnh của Tôn giả thực xứng đáng cho các Tỳ-kheo noi theo.
18. Tôn giả Bhaddiya (Ba-đề)
Tôn giả sinh tại Kapilavatthu, thuộc dòng hoàng tộc của Thế Tôn. Trong cung, Tôn giả đầy quyền thế, dư dật về vật chất, nhưng Tôn giả luôn có cảm giác sợ hãi, bất an. Khi được xuất gia, Tôn giả cảm thấy rất hạnh phúc, giữa hạnh đầu đà rất nghiêm túc, sau đó đắc A-la-hán. Tôn giả thường ca ngợi nếp sống trong rừng sâu tĩnh mịch. Tôn giả thường được đức Phật khen là vị Tỳ-kheo hoàng tộc thiện tu đệ nhất.
19. Tôn giả Lakuntaka Bhaddiya (Kiều-phạm Ba-đề)
Tôn giả sanh tại Sàvatthi, gia đình giàu sang. Tôn giả có tên là Bhaddiya nhưng vì thân hình quá thấp lùn nên có thêm tên là Lakuntaka Bhaddiya. Ðặc biệt Tôn giả thuyết pháp với âm thanh dịu ngọt, rất thu hút người nghe nên đức Phật khen là vị đệ tử có âm thanh vi diệu nhất. Một hôm nhân một phụ nữ trông thấy Tôn giả mà bỗng bật phá lên cười để lộ hàm răng trắng, Tôn giả lấy đó làm đề tài thiền quán và chứng A-na-hàm (Tam Thánh quả). Về sau, Tôn giả được Trưởng lão Sàriputta chỉ cho tu thân hành niệm, và theo đó Tôn giả đắc A-la-hán.