Bài Học Từ Cuộc Đời Đức Phật

6. Xuất gia.

Thái tử trình bày tâm nguyện xuất gia, vua cha không cho, gia đình không bằng lòng. Một hôm, sau bữa tiệc linh đình trong triều, mọi người đã ăn uống say sưa, không còn biết gì. Nửa khuya, thái tử nhìn thấy cung nữ nằm la liệt. Đằng sau của vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành là một cái thây nằm thừ ra như xác ma, chân một nơi, tay một ngã, tóc rối bù xù, nước miếng nhuể nhoại. Khi ăn tiệc ngon chừng nào thì bây giờ lộ vẻ mê man, gớm ghiết chừng ấy. Sự thật của cuộc đời đang diễn ra rất rõ trước mắt, lòng nung nấu tìm đường thoát khổ càng dâng cao, nửa đêm thái tử quyết định vượt thành đi xuất gia.

Một vị thái tử ở trong cung vua, có đầy đủ tất cả những thứ mà mọi người mơ ước, có nhiều hơn rất nhiều so với những gì chúng ta đang có, nhưng một khi nhận ra bản chất thật của kiếp người là giả dối, tạm bợ, mong manh, thái tử liền bỏ lại mọi thứ để đi tầm đạo và tu tập được. Chúng ta hiện nay nhìn đi nhìn lại chỉ có ba bốn người, của cải giỏi lắm là vừa đủ ăn, có dư chăng thì cũng chút ít chứ không thể bằng vua được, nhưng lại bị nó chi phối và khổ sở quá chừng! Cũng vì những thứ đó mà ngày này buồn, ngày kia vui, ngày nọ khổ, xộc xệch đủ thứ hết. Đó là vì chưa giác ngộ được sự thật của kiếp người, chưa giác ngộ được bản chất thật của những thứ tạm bợ chung quanh cuộc sống chúng ta.

Nếm trải trường đời, con người đã có được vài kết luận, tuy khôi hài, nhưng lại phản ánh đúng sự thật đang xảy ra: “Khi chưa cưới thì chồng nói vợ nghe. Cưới nhau rồi thì vợ nói chồng nghe. Sống với nhau một thời gian rồi thì vợ chồng nói nhau mà cả xóm làng người ta đều nghe inh ỏi.” Có nhiều người ban đầu khổ sơ sơ thì còn mắc cỡ, giấu giếm. Nhưng đến lúc khổ quá, không giấu nổi nữa nên phải thưa thiệt để xin quý thầy giúp đỡ. Quý thầy vẫn thường khuyên. Qúy vị phải nhìn thật kỹ để thấy rõ bản chất thật của cuộc sống, có vậy mới không bị nó lừa. Thử một lần tìm không gian yên tĩnh, bình tâm tỉnh trí để nhìn về cha mẹ, ông bà của mình. Xưa kia quý vị cũng có một thời trẻ trung như mình, cũng mơ mộng, thêu dệt đủ thứ… Nhưng khi về sống với nhau thành gia đình, có con, có cháu rồi thì cũng chỉ lo làm, lo ăn để duy trì cuộc sống chứ có rảnh đâu để ngồi đó mà tơ tưởng như thời trẻ con nữa. Qua rồi thời tơ tưởng ảo vọng, mới nhận ra sự thật của đời sống gia đình trong cuộc đời này chỉ là một sự nương nhau để sống mà thôi. Đã có ông bà bố mẹ trải qua cho ta học lấy kinh nghiệm, nhìn đúng sự thật để sống đúng, không bị tơ tưởng sai lầm của tuổi trẻ thì sẽ bớt đi được những nỗi khổ đau không đáng có.

Sinh ra trong đời, không phải nhất thiết ai cũng phải có đôi bạn, phải có gia đình mới sống được. Có những người đầy đủ nghị lực, không cần sự nương tựa nào bên ngoài, một mình họ cũng có thể tự sống ổn định và tốt đẹp được thì họ sẽ không cần phải có đôi bạn hay lập gia đình. Nếu có người chưa đủ điều kiện, chưa thể sống một mình thì họ cần có một người thứ hai để cùng chung gồng gánh, lo cho nhau để ổn định cuộc sống, thế thôi. Sự thật của nó không có gì huyền ảo xa xôi như mình tơ tưởng. Cứ nhìn vào cuộc đời đã được sống trải của cha mẹ, ông bà mình thì sẽ thấy ra rất rõ. Thực tế cuộc sống của quý vị chỉ là một sự nương vào nhau để xây dựng cuộc sống. Người này đi buôn thì người kia đi xe thồ. Người này lãnh đạo thì người kia nấu ăn… Rành rành một sự thật là nương vào nhau để xây dựng cuộc sống. Mọi thứ tơ tưởng, dệt mộng lớn lao của thời non trẻ đều không có thật. Biết vậy thì quý vị trẻ nên bình tâm để thấy ra và luôn ghi nhớ rằng, trong cuộc sống, quý vị không thể sống một mình thì có đôi bạn cũng chỉ để nương vào nhau xây dựng sự sống thế thôi, không có gì giống những ảo tưởng xa xôi như mình nghĩ. Nếu không thấy rõ như thế, suốt ngày cứ thêu dệt tơ tưởng nhiều quá thì sẽ bị nó lừa gạt mình, chính nó sẽ đưa mình đi đến khổ đau. Bởi khi ảo tưởng, dệt tơ tưởng là đánh mất đi cái thấy biết sự thật về cuộc đời này, đánh mất mình, yếu đuối, bị cuộc sống lừa gạt, đưa đến các khổ đau. Còn nếu quý vị thấy rõ sự thật cuộc sống rồi thì đừng tơ tưởng, cứ bình thường mà sắp xếp mọi việc, cứ bình dị, ổn định mà sống thì tâm mình sẽ được ổn định, không dao động. Do bình tĩnh, không dao động nên có nghị lực. Hôm nào đó lỡ mất lòng nhau thì mình cũng cảm thấy bình thường. Mọi người có niềm nỡ, vui vẻ thì chúng ta cũng cảm thấy bình thường. Ở hoàn cảnh nào, gặp cái gì chúng ta cũng bình thường hết. Từ đó, các cái khổ sẽ không đến được với mình nữa. Nếu không như thế, chúng ta sẽ bị đau khổ dài dài. Một điều nữa cần phải nhớ, chúng ta có sống hết lòng, có ham muốn và dốc hết sức, có hoàn hảo 100%, nhưng khi nhắm mắt, những thứ đó mình không mang theo được. Mới biết, mọi thứ trên đời này nó chỉ có một giá trị nhất định nào đó thôi. Nhưng nếu chúng ta vắt kiệt sức, đem trọn cả cuộc sống này để theo đuổi những thứ mà mình không đem theo được, nó sẽ không còn giá trị khi mình nhắm mắt, như thế thì lãng phí quá. Đó là chúng ta đã đốt thiêu sự sống, thiêu rụi một giá trị lớn lao cả đời mình để đuổi theo một thứ tạm bợ, mong manh.

Để ý một chút sẽ thấy, những người nào cùng trang lứa với mình, nhưng họ điềm đạm, nhẹ nhàng, tỉnh táo, luôn tươi vui, chan hòa mà vẫn định tĩnh. Khi gặp nghịch cảnh, người đó không dễ khổ, và ai khổ sẽ tìm tới họ để sẻ chia. Ngược lại, nếu người tơ tưởng, bồng bột, lăng xăng lộn xộn, vội vội vàng vàng, dễ học đòi theo những thứ bên ngoài xã hội thì như người mất đà, đùng một chút việc là yếu xìu liền, sống không muốn nổi. Nếu thấy rõ như vậy thì chúng ta sẽ định tĩnh, ổn định được cuộc đời mình, không để những thứ tơ tưởng, vẻ vời lừa gạt để rồi phải chịu khổ đau một cách đáng thương vô ích.

Cùng một sự việc xảy ra, nếu lòng ta an tĩnh thì thấy rất bình thường, không có gì đáng cả, mọi chuyện vẫn nhẹ nhàng, vui vẻ. Nhưng nếu gặp lúc lòng mình bận rộn thì mọi thứ rắc rối có ra, sự thể trở nên phức tạp, rối rắm, khổ đau. Một thoáng tâm an, chúng ta đã cảm nhận được giá trị đặc biệt như thế. Huống nữa chân trời giác ngộ trọn vẹn, giá trị đó lớn lao biết dường nào! Nếu ai đó đã có lần kinh nghiệm giá trị của sự an tĩnh tuyệt đối, thể nghiệm được chân trời giác ngộ thì sẽ cảm nhận được giá trị lớn lao kia, sẽ thấy rõ cuộc sống của chúng ta được sinh ra đây chỉ là một khoảng để mình hoàn thành sự giác ngộ, làm một khoảng giác ngộ trên chặng đường giác ngộ lâu dài của mình. Đó là việc chính, mọi thứ còn lại chỉ để ổn định cuộc sống tạm thời thôi, không có gì lớn lao cả.

Khi thái tử còn ở trong cung điện, có đầy đủ những thứ mà người đời ham muốn, nhưng Ngài lại cảm thấy không có gì đáng để vui cả. Ngài quyết định giã từ mọi thứ, vượt thành xuất gia tầm đạo. Nếu chưa đủ duyên từ giã mọi thứ để đi xuất gia, còn sống trong đời thì nên nhìn nhận cho rõ bản chất thật của mọi thứ và định tĩnh trở lại để bớt đi sự dính mắc, sự chi phối của cuộc đời, cuộc sống sẽ bớt đau khổ. Đó là quý vị đã khéo léo vận dụng để học theo phần nào công hạnh của đức từ phụ chúng ta.

7. Học đạo.

Thái tử đã trải qua quá trình tầm đạo và học đạo với nhiều vị tiên nhơn. Những gì các vị tiên nhơn chứng được thì Ngài đều chứng đạt được. Dù vậy, Ngài nhận thấy những sở chứng đó vẫn chưa phải là chỗ rốt ráo, chưa xứng ý những gì Ngài mong mỏi. Vì thế Ngài đã từ giã và tìm đến cội Bồ đề để thiền định. Cuối cùng đạt được đạo quả. Sự quyết tâm của ngài đã cho chúng ta bài học, một khi đã học đạo, tu hành thì phải tìm đúng đường, học hiểu rồi phải tư duy và thực hành đến nơi đến chốn chứ không phải học cho có, làm nửa vời. Có khi do hời hợt, thiếu tính tư duy chính chắn nên quá dễ dàng tin tưởng. Nghe quảng cáo là tin liền, đụng cái gì mình cũng tin được hết. Nghe nhiều người đồn đãi điều gì đó hay hay là tin ngay mà thiếu đi sự cân nhắc, suy xét cho tới nơi tới chốn. Dễ tin thì cũng dễ quên và thực hành cũng thiếu sự mạnh mẽ, dứt khoát nên không đi đến đâu cả. Khi nghe một điều gì đó, chúng ta phải tư duy coi có đúng chánh lý không, điều đó có mang lại niềm an lạc cho mình và mọi người hay không, có đưa đến sự giác ngộ giải thoát hay không, rồi sau đó mới tin và ứng dụng, thực hành. Đừng gấp gáp, vội vàng, dễ tin. Nếu nghe rồi tin và thực hành liền thì thường là chỉ được một thời gian thôi, sau đó sẽ cảm thấy chán mỏi, bỏ cuộc, không làm nữa và đi tìm cái khác mới lạ hơn. Cuối cùng cả đời không được gì cả, chưa nói đến việc lầm đường lạc lối. Đó là do thiếu tư duy đưa đến niềm tin không vững, dẫn đến chí nguyện của mình không dứt khoát, không kiên quyết nên không đưa đến kết quả nào cả. Được như vậy là quý vị đã biết học theo cách lập chí tầm đạo và tu tập của đức Phật. Khi đi học đạo thì phải tìm cho đúng con đường. Khi tìm ra con đường đúng chân lý rốt ráo rồi thì phải gan dạ, kiên quyết thực hành cho đến nơi đến chốn. Cụ thể Ngài đã học qua và thấy rõ những sở chứng Ngài đã đạt được đó chưa phải rốt ráo, chưa đáp ứng đúng như những gì Ngài đang khắc khoải trong lòng nên đã từ giã, quyết tâm đến cội bồ đề tọa thiền. Ngài nói rằng, nếu như không chứng đạo thì thà bỏ thân xác ngay cội bồ đề chứ không đứng dậy. Đó là một sự quyết tâm mạnh mẽ và dứt khoát. Nhờ vậy, đến đêm thứ bốn mươi chín, khi sao mai vừa mọc thì Ngài đã chứng được đạo quả bồ đề viên mãn. Nếu có được tâm kiên quyết, mạnh mẽ, dứt khoát như vậy thì chắc chắn rằng, chúng ta cũng sẽ có những bước tiến đáng kể trong công phu tu tập của mình.

8. Thành đạo.

Lúc vừa thành đạo, Ngài vẫn ngồi yên dưới cội bồ đề suốt bảy ngày để khám phá sự sâu mầu trong thiền định mà Ngài đã chứng được. Có nhiều người không hiểu Ngài ngồi làm gì, nhưng khi chúng ta đã ngồi thiền, đã tu tập có tiến bộ rồi thì rất dễ thâm hiểu điều này. Đây là điểm mà chúng ta cần phải lưu tâm học tập. Nhiều lúc mình ngồi thiền thấy an lạc một chút là vội mừng quá, xả thiền ra đi khoe lung tung cho là đã chứng đạt cái gì đó rồi. Trong khi đó đức Phật đã thành Phật, đã thành tựu quả vị viên mãn mà Ngài vẫn ngồi yên lại để khám phá cho tột cùng sự sâu mầu trong đó. Bởi vì cái tâm sâu mầu đó rất vi diệu, cao siêu và rộng lớn vô vàn. Nếu không chính chắn thì không thể nào thể nghiệm thấu đáo suốt thông hết được. Có nhiều vị Thiền sư trước sau ngộ đến mười mấy lần mà vẫn còn dụng công miên mật. Khi chưa thành Phật thì việc giác ngộ ấy chưa xong. Cho nên khi tu tập thiền định, có thể nhận bản tâm rồi thì cũng cần phải lặng lẽ tiếp tục miên mật công phu. Nương theo đà tiến đó, ngay chỗ cảm nhận đó, sống thẳng bằng sự thể nghiệm đó để chúng ta tu tiến thêm, như vậy sẽ vững vàng tiến mãi. Nếu mới được một chút thì lo đi khoe, đi nói rồi cho là đã chứng đắc thì sẽ làm chướng ngại con đường tiến đạo và sanh nhiều bệnh hoạn. Như là cho mình đã chứng đạo rồi nên không cần tinh tấn công phu nữa. Nhưng không biết rằng, nói chứng đạo theo kiểu đó là bào chữa cho cái cố tật lười tu hành của mình rồi làm biếng không chịu công phu để được tiến bộ hơn nữa. Vi tế hơn, khi vừa thấy có sở chứng thì liền thành chướng ngại cản trở bước tiến đạo của mình. Một điều quan trọng không kém là khi chúng ta đi nói ra mình đã chứng đắc như thế thì có chỗ khởi tâm. Đó là điều kiện để chướng duyên ùa tới khiến cho mình bị chướng ngại, khó công phu để được tiến hơn. Cho nên cần nhớ rằng, khi đã viên thành đạo quả, đã thành Phật rồi, nhưng một tuần lễ đầu đức Phật vẫn ngồi yên để tiếp tục khám phá sự sâu mầu, cái ảo diệu mênh mông, sâu xa trong đạo cả Ngài đã chứng đạt được. Ai từng đến trong đó rồi mới thấy rõ được đây quả là một điều rất tâm đắc, không thể thiếu khi chúng ta đã có công phu, có bước tiến, có chỗ sống đặc biệt. Trên đường học đạo và tu tập, chúng ta cần lưu tâm học theo điều đức Phật đã ứng dụng thực hành. Phải thận trọng, điềm đạm để dụng công tu tập cho tới nơi tới chốn. Không nên mới được chút ít mà cho là đã đạt được đủ rồi, như thế sẽ ngăn cản bước tiến của mình, thật rất lãng phí, đáng tiếc!

Tuần thứ hai, Ngài đi ra ngồi ngay vị trí ngôi tháp bên trái bây giờ và nhìn về cội bồ đề một tuần lễ không chớp mắt để tỏ lòng biết ơn cội cây đã che chở cho mình thành đạo. Đức Phật không quên một ơn nhỏ dù đó chỉ là người một lúc xâu chỉ qua kim dùm. Nhưng vì sao Ngài lại đặc biệt biết ơn cây bồ đề tới một tuần lễ ngồi nhìn như vậy? Bởi vì cội bồ đề là nơi che mát, che chở cho Ngài tọa thiền để thành được đạo quả. Vì sao nơi giúp cho mình thành đạo quả lại được đặc biệt biết ơn nhiều như vậy? Nếu ai đã dụng công tu tập một cách rốt ráo, có kết quả, quý vị sẽ thấy rõ điều này. Ví dụ chư tăng ni đệ tử ai cũng kính quý Hòa Thượng tôn sư, ai cũng biết ơn Hòa Thượng đã dạy dỗ, chỉ cho con đường tu tập để thoát khổ, ai cũng nói rằng, nếu không gặp Hòa Thượng thì không biết cuộc đời mình ra sao, sẽ trôi dạt như thế nào… Nhưng đối với những vị nhập thất có tiến bộ đáng kể đến trình bạch lên Hòa Thượng, chưa nói nên lời là đã bậc khóc, hoặc có vị thì cười òa bởi sự cảm nhận đạo lý chân thật hòa cùng lòng biết ơn sâu xa, vô hạn không nói nên lời. Cảm nhận ân đức có mức độ thì còn nói được, nhưng nếu sâu sắc hơn thì chưa thốt nên lời đã phá cười, bậc khóc. Khi chúng ta ứng dụng lời dạy của Hòa Thượng để tu tập một cách triệt để, có sự tiến bộ đáng kể thì sẽ cảm nhận được sâu sắc lòng từ của Ngài đã dạy dỗ, đã ban cho mình, mới cảm nhận sâu sắc con đường Ngài đã chỉ dạy cho mình là như thế nào. Và càng tiến sâu thì sự cảm nhận đó càng sâu kín, càng mạnh mẽ trong nội tâm khiến cho chư Tăng Ni phải bậc khóc hoặc bậc cười. Chỉ có khi đã giác ngộ mới cảm nhận sâu sắc và hết được ý vị của đạo lý chân thật, cảm niệm sâu xa đến nơi đã giúp chúng ta thành nên đạo cả ấy. Cho nên sau khi thành đạo, đức Phật đã ngồi nhìn cội bồ đề một tuần không chớp mắt. Không phải biết ơn bình thường mà Ngài cảm nhận sâu sắc nơi Ngài ngồi được thành đạo. Chính sự thành đạo này nên Ngài mới có sự cảm nhận và biết ơn sâu sắc đó.

Ngài Trích Thủy nói có ba hạng đệ tử. Hạng bậc thượng là nương theo lời dạy của thầy mà tiến bộ, vươn lên. Hạng bậc trung là khen ngợi lòng từ bi của Thầy mình. Hạng bậc hạ thì lợi dụng uy tín của thầy mình. Người nương theo lời dạy của thầy để tu tiến, để giác ngộ thì ngài Trích Thủy nói đó là hạng đệ tử bậc thượng. Chỉ khi nào nương theo lời dạy của Thầy mình để công phu tu tập, chúng ta mới thể nhận sâu xa sự giác ngộ. Có tu tiến được như thế thì chúng ta mới cảm động và biết ơn sâu xa được. Đó mới xứng đáng là người đệ tử đúng nghĩa của thầy mình. Ở đây chúng ta học được một điều trọng yếu, muốn biết ơn một cách sâu xa đối với đức Phật, với chư Tổ, với Hòa Thượng tôn sư thì chúng ta phải khéo vận dụng lời dạy của quý ngài để dụng công, để tu hành một cách triệt để. Như thế chúng ta mới có được một sự tiến bộ thực sự từ nội tâm, mới cảm nhận sâu sắc cái ơn lớn vòi vọi của quý ngài đối với mình. Càng tu tiến, chúng ta càng thông cảm, càng từ bi với mọi người, muốn giúp cho người khác cũng được tiến bộ như mình. Khi tu hành tiến bộ đáng kể, tâm mình trở nên quảng đại, cảm nhận được một niềm an lạc nhẹ nhàng, tinh tế, sâu xa thì chúng ta sẽ cảm nhận rất rõ và biết từng cái ơn nhỏ không thiếu sót. Đó là chúng ta đã học được hạnh biết ơn và đền ơn từ một tâm thể giác ngộ như quý Ngài.

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.