Giảng Giải Chú Đại Bi – Phần 1

Ðại Bi Tâm Ðà La Ni Thần Chú

Nam mô hắc la đát na, đa la dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bác ra da, bồ đề tát đoả bà da, ma ha tát đoả bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát toả.

Nam mô tất kiết lật đoả, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.

Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đoả, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt xà ra đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha, ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, ta bà ha.

Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàng ra dạ, ta bà ha.

Án tất điện đô, mạng đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.

Thủ Nhãn thông thiên đại tổng trì
Chấn động tam thiên thế giới thời
Hữu duyên vô duyên hàm nhiếp hóa
Từ bi phổ độ diêm phù đề .

Chú Ðại Bi giảng giải

Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng vào năm 1969 tại Phật Giáo Giảng Ðường tại Tam Phan Thị (San Francisco)

Chú Ðại Bi, vốn chẳng có cách gì giảng được, vì Chú là mật ngữ bí mật. Nếu muốn biết ý nghĩa của Chú Ðại Bi thì trước hết tôi nói một bài kệ. Bài kệ này nói về Chú Ðại Bi :

“Ðại bi đại Chú thông thiên địa
Nhất bách nhất thiên thập vương hoan
Ðại bi đại từ năng khử bệnh
Nghiệt kính nhất chiếu biển cao huyền”.

Ðại bi đại Chú thông thiên địa” : Bạn đọc Chú Ðại Bi thì trên trời cũng chấn động, dưới đất cũng chấn động, thông thiên triệt địa.

Nhất bách nhất thiên thập vương hoan” : Mỗi ngày bạn tụng 108 biến, tụng một ngàn ngày ; một năm có 365 ngày, một ngàn ngày tức khoảng ba năm. Bạn tụng ba năm mà mỗi ngày tụng chẳng gián đoạn. Mỗi ngày lúc nào bạn tụng Chú Ðại Bi thì nhất định tụng vào lúc đó, dù bận thế nào bạn cũng tụng 108 biến. “Thập vương” là mười ông vua ở dưới địa ngục, còn gọi là Thập Ðiện Diêm Vương, các vị ấy đều vui mừng, đó gọi là “Nhất bách nhất thiên thập vương hoan”.

Ðại từ đại bi năng khử bệnh” : Vì sao Chú Ðại Bi gọi là Chú Ðại Bi ? Vì “bi hay cứu khổ”, hay cứu tất cả khổ nạn của chúng sinh ; đó là “cứu khổ ban vui”, cho nên gọi là Chú Ðại Bi. Cứu khổ ban vui, chủ yếu là có thể trị bệnh ; bất cứ có bệnh gì, bạn tụng Chú Ðại Bi thì bệnh đều khỏi hẳn. Có người nói : “Tôi tụng Chú Ðại Bi sao bệnh không khỏi hẳn ?” Vì bạn chẳng thành tâm ; nếu bạn thành tâm, thì nhất định sẽ có cảm ứng của Chú Ðại Bi.

Nghiệt kính nhất chiếu biển cao huyền” : Mỗi ngày bạn tụng 108 biến mà tụng một ngàn ngày, tức cũng khoảng thời gian ba năm, thì mười ông vua Diêm Vương đều vui mừng, bệnh gì cũng đều có thể trị được. Lúc đó bạn lập được rất nhiều công ; vì trong thời gian ba năm, hằng ngày bạn đều tụng Chú, chẳng tạo nghiệp. Dưới địa ngục có một tấm gương gọi là “nghiệt kính đài“, bất cứ bạn tạo tội nghiệp gì thì đều hiển hiện ra ở trong tấm gương đó, giống như màn ảnh truyền hình. Một đời bạn làm gì, như bạn giết người thì trong tấm gương đó sẽ hiện ra tình hình bạn giết người ; bạn trộm cắp vật của người thì trong tấm gương đó sẽ hiện ra cảnh tượng bạn trộm cắp ; nếu bạn đi đốt nhà phóng lửa thì trong tấm gương đó sẽ hiện ra nghiệp bạn đã làm. Nếu bạn chẳng có nghiệp gì thì sao ? Thì trong tấm gương đó chẳng có cảnh giới gì để hiện ra. Cho nên trong ba năm bạn tụng Chú Ðại Bi, nếu chẳng uống rượu, chẳng ăn thịt, chẳng ăn ngũ tân (hành, hành tây, hẹ, tỏi, nén) thì khi tấm gương “nghiệt kính đài” chiếu lên thì bạn chẳng có nghiệp chướng gì ; ở dưới địa ngục cho bạn mang tấm bảng nói rằng : “Người đó tụng trì Chú Ðại Bi, đã tiêu trừ nghiệp của họ, tất cả quỷ thần dưới địa ngục thấy người đó đều cúi đầu đảnh lễ cung kính như chư Phật ba đời và đều bảo hộ người đó như bảo hộ tất cả chư Phật, và cũng đi khắp nơi nói với các quỷ thần khác rằng thấy người đó đừng có nhiễu loạn họ”. Cho nên Chú Ðại Bi có oai lực như thế, thật là không thể nghĩ bàn. Bây giờ giảng về Chú Ðại Bi.

1. Nam Mô Hắc La Ðát Na Ða La Dạ Gia.

Chúng ta thường niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật”, “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”; niệm thì niệm, vậy cứu kính hai chữ “Nam Mô” nghĩa là gì ? Rất ít người biết. Trước kia tôi từng hỏi nghĩa hai chữ “Nam Mô” như thế nào ? Chẳng có ai trả lời được như ý, họ đều chẳng biết.

“Nam Mô” là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “quy y”, cũng là “quy mạng kính đầu”. Quy mạng là đem mạng sống của mình giao cho Phật, mình chẳng cần ; Phật kêu ta sống thì ta sống, kêu ta chết thì ta chết, nghe sự chỉ đạo của Phật. Kính là cung kính ; đầu là nương tựa. Kính đầu tức là cung kính nương tựa vào Phật. Chúng ta quy mạng tức là thân của chúng ta cũng quy y cho Phật, tâm cũng quy y cho Phật ; thân tâm đều quy y cho Phật.

Hắc La Ðát Na Ða La Dạ Gia“: Nói tổng quát tức là mười phương vô lượng vô tận Tam Bảo, trên hình vẽ nói là bổn thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Tuy là bổn thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, tức cũng là quy y mười phương chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai.

Niệm câu Chú này ra chẳng phải chỉ kêu ta quy y mười phương vô tận thường trụ Tam Bảo, mà cũng khiến cho tất cả chúng sinh nghe được câu mật ngữ này thì đều quy mạng nương tựa vào mười phương ba đời vô tận vô tận thường trụ Tam Bảo. Tam Bảo như bạn đã biết là Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo. Bạn phải biết, trên thế gian cao quý nhất là Phật Bảo, cao quý nhất là Pháp Bảo, cao quý nhất cũng là Tăng Bảo. Chẳng có gì cao quý hơn bằng Tam Bảo. Chẳng những trong thế gian, mà dù xuất thế gian cho đến cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ cũng chẳng cao quý bằng Phật, Pháp, Tăng, Tam Bảo. Cho nên trong mười pháp giới thì pháp giới của Phật là cao nhất. Cao nhất là Tam Bảo, nên chúng ta phải quy y, phải cung kính, phải tin nhận, đừng có tơ hào tâm hoài nghi; phải sinh tâm tin sâu sắc.

Quy y Tam Bảo có lợi ích gì ? Quy y Phật thì chẳng đọa địa ngục; quy y Pháp thì chẳng đọa làm ngạ quỷ; quy y Tăng thì chẳng đọa làm súc sinh. Ðó là nói sơ về quy y Tam Bảo.

Song, bạn quy y thì phải làm các điều lành mới được, nếu bạn vẫn giống như trước, sát sinh giết người, phóng lửa, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, chẳng có gì mà chẳng làm thì bạn chẳng tránh khỏi ba đường ác. Vì trong Phật pháp chẳng nói gì đến nhân tình. Chẳng phải nói :”Bạn đã quy y Phật, đã quy y Pháp, đã quy y Tăng. Quy y Phật thì chẳng đọa vào địa ngục ; quy y Pháp thì chẳng đọa làm ngạ quỷ ; quy y Tăng thì chẳng đọa làm súc sinh. Vậy thì bạn cứ tùy tiện muốn làm gì thì làm”, chẳng phải vậy. Bạn phải cải ác hướng thiện, vĩnh viễn không làm việc xấu nữa mới được. Nếu bạn vẫn làm việc xấu thì vẫn đọa địa ngục như nhau. Chẳng giống như các ngoại đạo khác nói :”Chỉ cần bạn tin Chúa thì dù bạn tạo tội nghiệp cũng được lên Thiên đàng ; nếu bạn chẳng tin Chúa, thì dù bạn làm công đức cũng đọa địa ngục”. Chẳng phải đạo lý như thế. Dù bạn tin Phật, nếu bạn tạo tội nghiệp thì nhất định cũng đọa địa ngục như nhau ; dù bạn chẳng tin Phật, nhưng nếu bạn làm công đức, cũng được sinh về cõi trời như nhau. Phật pháp chẳng phải là một thứ đạo lý mê hoặc lòng người, nói : “Ngươi phải tin ta thì muốn gì cũng đều được”, chẳng phải như thế. Bạn tin Phật cũng phải đừng tạo tội nghiệp mới được ; nếu bạn tạo tội nghiệp thì vẫn bị đọa địa ngục như thường. Tức nhiên đọa địa ngục như nhau, vậy tại sao còn phải quy y Tam Bảo ? Quy y Tam Bảo thì bạn phải cải ác hướng thiện, sửa đổi lỗi lầm, làm con người mới, từ nay về sau chỉ làm việc lành, chẳng làm việc xấu nữa, như thế thì mới được lợi ích. Cho nên câu này là quy y mười phương vô tận vô tận Tam Bảo.

Bạn niệm câu Chú này thì bạn cũng được tiêu tai. Bạn có tai nạn gì, mà thường niệm “Nam Mô Hắc La Ðát Na Ða La Dạ Gia” thì tai nạn của bạn sẽ được giải trừ, tai nạn lớn thì sẽ biến thành tai nạn nhỏ, tai nạn nhỏ thì sẽ biến thành chẳng có tai nạn. Cho nên đây là ” pháp tiêu tai “.

Nam Mô Hắc La Ðát Na Ða La Dạ Gia” còn là “ pháp tăng ích “. Pháp tăng ích tức là bạn vốn đã có căn lành rồi mà bạn niệm Chú này thì căn lành của bạn càng tăng thêm, đắc được lợi ích càng nhiều, cho nên gọi là pháp tăng ích.

Bạn thường niệm Chú Ðại Bi, niệm riêng một câu “Nam Mô Hắc La Ðát Na Ða La Dạ Gia”, thì bất cứ bạn muốn gì, mong cầu gì, bạn sẽ được sở cầu như ý, sở nguyện toại tâm, đây là “pháp thành tựu “. Bạn cầu gì cũng đều sẽ thành công. Ví như chẳng có con, muốn cầu con thì bạn niệm “Nam Mô Hắc La Ðát Na Ða La Dạ Gia” thì sẽ được con. Chẳng có bạn trăm năm mà bạn muốn tìm một người bạn tốt thì bạn niệm “Nam Mô Hắc La Ðát Na Ða La Dạ Gia” thì cũng sẽ được người bạn tốt. Song, bạn phải thành tâm, chẳng phải niệm một ngày, hai ngày, mà ít nhất bạn phải niệm ba năm. Nếu bạn niệm hết toàn bài Chú thì càng tốt, nếu không niệm hết thì niệm một câu “Nam Mô Hắc La Ðát Na Ða La Dạ Gia” cũng thành tựu công đức không thể nghĩ bàn.

Giống như tại Ðông Bắc bên Trung Quốc, có một thứ ngoại đạo gọi là ‘Lý môn’. Chúng chẳng niệm gì khác, chỉ niệm một câu này. Vị lãnh tụ tối cao ngồi ở đó thọ người lễ lạy, ai ai cũng đều cuối đầu lạy anh ta. Trong tâm anh ta chỉ chuyên môn niệm “Nam Mô Hắc La Ðát Na Ða La Dạ Gia”, đó là pháp linh cảm của Lý môn. Một vị ngồi kế bên anh ta gọi là ‘lãnh chánh’, còn vị nữa gọi là ‘bang chánh’, ba người ngồi ở tại đó, giống như là ‘phóng diệm khẩu’(chẩn tế cô hồn). Ðó tức là Lý môn. Nếu có ai đi “tại lý” thì anh ta truyền một câu mật ngữ. Câu mật ngữ này kêu bạn duỗi tay ra, tức là “Quán, Thế, Âm, Bồ, Tát”, chỉ mấy chữ ; tại lý xong rồi thì coi như đã “triện thượng”, triện thượng rồi thì về sau chẳng cần mở miệng niệm; phải niệm ở trong tâm :”Quán Thế Âm Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát”, chẳng niệm ra lời. Câu pháp này “phụ tử bất qua, thê tử bất truyền”, giữa cha và con cũng không thể truyền, dù vợ chồng cũng không được nói. Ðắc được năm chữ này rồi thì gọi là “ngũ tự chân ngôn”. Sau đó lại bảo bạn “tại lý”, không niệm như vậy nữa mà phải “bế khẩu tàng thiệt”, câm miệng, lưỡi thì ẩn náu đi ; “thiệt tiêm đình thượng ngạc”, “khí khác tâm niệm”, niệm ở trong tâm; “ý căn pháp hiện”. Ðây nói thật là hảo diệu, hảo thần mật. Tại phương bắc có một cái hội gọi là “giới yên tửu hội”, hội này chủ yếu là không uống rượu, không hút thuốc, tức gọi “tại lý công sở”. Ở Trung Quốc gần hơn một trăm năm đến nay “công sở đạo” rất là thịnh hành, họ nương vào câu Chú này. Làm Pháp sư ngồi tại chánh tòa “tòa lý” niệm “Nam Mô Hắc La Ðát Na Ða La Dạ Gia”. Vì trước kia những nơi này tôi đều đã đi qua cho nên tôi đều biết.

Câu Chú này cũng là ” pháp hàng phục “, hay hàng phục thiên ma, chế các ngoại đạo. Tất cả thiên ma ngoại đạo nghe thấy câu Chú này thì đều bỏ chạy, Song, chẳng phải là ” pháp câu triệu “; pháp câu triệu tức là một khi niệm câu Chú này thì bắt thiên ma quỷ quái lại. Cho nên câu Chú “Nam Mô Hắc La Ðát Na Ða La Dạ Gia” này có công năng không thể nghĩ bàn; nếu nói ra nhiều thì vô cùng vô tận.

Nam Mô Hắc La Ðát Na Ða La Dạ Gia” : Nam Mô : Là “quy mạng kính đầu“, Hắc La Ðát Na : Là “Bảo”; Ða La Dạ : Là “Tam”; Gia : Là “lễ”. Hợp lại nghĩa là nói dùng thân tâm tính mạng của chúng ta quy y cho mười phương ba đời vô tận vô tận Tam Bảo, chúng ta cúi đầu đảnh lễ Tam Bảo.

Vô tận là gì ? Chư Phật quá khứ chẳng cùng tận, chư Phật hiện tại chẳng cùng tận, chư Phật vị lai cũng chẳng cùng tận; đó gọi là vô tận Tam Bảo.

2. Nam Mô A Lợi Gia.

“Nam Mô” : Nghĩa vẫn giống như ở trước, tức là “quy y kính đầu”.

“A Lợi Gia”: ‘A Lợi’ dịch là “bậc Thánh”; Bậc Thánh còn có một ý nghĩa là “xa lìa tất cả pháp ác bất thiện”. Pháp ác bất thiện là đủ thứ các điều ác. “Gia” vẫn là “lễ”. Kính lễ bậc Thánh, đó là ý nghĩa “A Lợi Gia”.

3. Bà Lô Yết Ðế Thước Bát La Gia.

“Bà Lô Yết Ðế”: Dịch ra nghĩa là gì ? Tức là “Quán” của Quán Thế Âm Bồ Tát, còn dịch là “quang”, tức là quang minh biến chiếu. Còn có một lối dịch khác nữa gọi là “sở quán sát”; sở quán sát cảnh giới này.

“Thước Bát La Gia”: Nghĩa là “tự tại”, câu này hợp lại là “Quán Tự Tại”, cũng là Bồ Tát Quán Tự Tại.

4. Bồ Ðề Tát Ðỏa Bà Gia.

“Bồ Ðề”: Chúng ta ai cũng biết bồ đề tức là giác, tiếng Phạn gọi là “bồ đề”, giác ở đây là giác ngộ.

“Tát Ðỏa”: Tức là “độ”. Bồ Ðề Tát Ðỏa nói đơn giản là “Bồ Tát”, tức là chúng sinh tự giác tự độ; tự mình giác ngộ, tự mình độ mình.

“Bà Gia”: Là “đảnh lễ”; “Gia”: Nghĩa là cúi đầu đảnh lễ. Cúi đầu đảnh lễ ai ? Cúi đầu đảnh lễ Bồ Tát tự giác tự độ”. Câu này nói về “Bất Không La Tác Bồ Tát áp đại binh”. Khi bạn tụng câu Chú này thì Bồ Tát Bất Không La Tác mang thiên binh thiên tướng đến để bảo vệ bạn.

5. Ma Ha Tát Ðỏa Bà Gia.

“Ma Ha”: Là “đại”, là “nhiều”, là “thắng”. “Ma Ha” là nói người phát đại bồ đề tâm; rất nhiều người phát đại bồ đề tâm, đều đắc được thành tựu, được thắng lợi. Có ba ý nghĩa này.

“Tát Ðỏa”: “Tát Ðỏa” ở đây với Tát Ðỏa ở trước nghĩa chẳng giống nhau. “Tát Ðỏa” ở trước nghĩa là “độ”; “Tát Ðỏa” ở đây nghĩa là “bậc dũng mãnh”, tức cũng là ‘bậc tinh tấn’, chúng sinh tu hành rất dụng công tinh tấn.

“Bà Gia”: Tức là “hướng về Ngài đảnh lễ”. Tôi hướng về vị Bồ Tát phát bồ đề tâm đó, vị dũng mãnh tinh tấn đó để cúi đầu đảnh lễ. Ðây là ý nghĩa mấy đoạn Chú ở trên đây, tức là nói về Bồ Tát hay tự mình giác ngộ rồi, chúng sinh tự mình độ mình và còn giác ngộ kẻ khác, độ tất cả chúng sinh khác.

6. Ma Ha Ca Lô Ni Ca Gia.

“Ma Ha”: Nghĩa vẫn là “đại, nhiều, thắng”, ba ý nghĩa. “Ca Lô”: Là “bi”, “Ni Ca”: Là “tâm”. Hợp lại tức là “Ðại Bi Tâm”. “Gia”: Vẫn là “đảnh lễ”. Ý nói chúng ta phải đảnh lễ Ðại Bi Tâm Ðà La Ni Thần Chú.

7. Án.

Chữ “Án” này dịch ra gọi là “bổn mẫu”, “bổn” tức là căn bổn, mẫu tức là mẫu thân. “Bổn mẫu” này tức cũng là “Chú mẫu”; “Chú mẫu” tức cũng là “Phật mẫu”; “Phật mẫu” tức cũng là “tâm mẫu của chúng sinh”. Vì tâm mẫu của chúng sinh đầy đủ bổn mẫu trí huệ; nhờ sức của Chú này mà hay sinh ra mười thứ pháp môn :

Thứ nhất là “tự”.

Thứ hai là “cú”, tức là Kinh điển hoặc là Chú, từng câu từng câu.

Thứ ba là “quán”, quán xem; bạn dùng sự quán sát để tu hành.

Thứ tư là “trí”, trí huệ; dùng kiếm trí huệ chặt đứt tất cả phiền não. “Trí” là Bát

Nhã Ba La Mật môn, “quán” tức cũng là thiền Ba La Mật môn.

Thứ năm là “hành”, tu hành; chiếu theo pháp này để tu hành.

Thứ sáu là “nguyện”, bạn phải phát nguyện chiếu theo pháp này để tu hành.

Thứ bảy là phải “y giáo tu hành” ; y chiếu theo Phật Giáo để tu hành. Nếu bạn chẳng y chiếu theo Phật Giáo để tu hành thì dù bạn tu hành trải qua số kiếp nhiều như cát như bụi, cũng giống như nấu cát muốn thành cơm, chẳng khi nào thành tựu. Nếu bạn muốn y giáo tu hành thì phải minh bạch giáo lý.

Thứ tám là “lý”, đạo lý; nếu bạn hợp với diệu lý Phật pháp thì mới minh bạch. Nếu bạn chẳng hợp với diệu lý Phật pháp thì bạn như người mù luyện đui, tu đến lúc nào cũng chẳng ích gì, cũng không thể thành tựu.

Thứ chín là “nhân”; bạn còn phải trồng nhân tốt, trồng nhân lành, trồng nhân thù thắng, trồng nhân thanh tịnh thì tương lai mới có kết quả tốt.

Thứ mười là “quả”; tức là kết diệu quả, kết Thánh quả, kết quả giác cứu kính.
Từ chữ “Úm” này mà sinh ra mười thứ pháp môn thù diệu. Cho nên khi bạn niệm Chú Ðại Bi, một khi niệm đến chữ “Úm” này thì tất cả quỷ thần đều phải chắp tay lại cung kính, một chút cũng không dám giải đãi, một chút cũng không dám cẩu thả để nghe bạn tụng Chú Ðại Bi. Cho nên khi bạn tụng Chú Ðại Bi đến chữ “Úm” này thì bất cứ là ác thần, ác quỷ, ác phong gì cũng đều phải giữ quy cụ, tức có oai lực như thế.

8. Tát Bàn La Phạt Duệ.

“Tát Bàn La”: Dịch là “tự tại”. Bạn tụng trì câu Chú này thì Tứ Ðại Thiên Vương đều đến làm hộ pháp. “Phạt Duệ”: Nghĩa là “Thế Tôn”, cũng gọi là “Thánh Tôn”. Ðây là Tự Tại Phật, câu Chú này là Phật Bảo.

9. Số Ðát Na Ðát Toả.

“Số Ðát Na”: Là “Pháp”. Pháp gì ? Tức gọi là “diệu thắng xứ”, tức cũng là “diệu thắng pháp”. Lại gọi là “cao thượng thắng sinh”. Cao ở đây chẳng có gì cao hơn được ; thượng cũng chẳng có gì sánh với Pháp thượng thắng này; thắng sinh là do thắng lực sinh ra pháp. Ðây là một lối phiên dịch.

Còn có lối phiên dịch khác, tức là “diệu thắng, thắng thân”. Diệu thắng này là thắng vi diệu, thắng thân là một pháp.

Còn có lối phiên dịch khác gọi là “tối thượng thừa địa”. Sẽ đắc được cảnh giới thập địa tối thượng thừa này về sau.

Ở trước, “Tát Bàn La” là Phật Bảo, “Số Ðát Na” là Pháp Bảo, “Ðát Tỏa” là Tăng Bảo; đây cũng là Tam Bảo, tức là thỉnh mời hết Tam Bảo đến gia hộ cho bạn, ai tụng trì Chú này thì thỉnh nguyện Tam Bảo đến bảo hộ cho người đó.

“Ðát Tỏa”: Tức là dùng giáo lý để sai khiến tất cả quỷ thần, tức cũng là dùng câu Chú này để sai bảo tất cả quỷ thần, tức có hai ý nghĩa.

10. Nam Mô Tất Kiết Lật Ðỏa Y Mông A Lợi Gia.

Câu này nói về ý nghĩa gì ? Trên cũng Nam Mô, dưới cũng Nam Mô, Nam Mô, Nam Mô, cứ Nam Mô người mà chẳng Nam Mô mình. Người tu đạo chẳng cần đi Nam Mô người mà phải Nam Mô chính mình. Nam Mô ở đây vẫn là chính mình tự quy y mười phương vô tận Tam Bảo. “Tất Kiết Lợi”: Là “hoàn toàn”; nghĩa là “hoàn toàn đảnh lễ”.

“Ðỏa Y Mông”: Nghĩa là gì ? Tức là “ta”; kêu bạn hoàn toàn đảnh lễ bạn. Cái “ta” ở đây là “ta” chẳng phải ta (vô ngã), chẳng phải ta “có cái ngã”. Sao chẳng có bạn ? Tức là họ đánh bạn, bạn cũng chẳng biết đau; họ mắng bạn, bạn cũng vẫn tự nhiên, cũng giống như chẳng có việc gì xảy ra, không nhất định phải nhẫn, nếu bạn dùng “nhẫn nhục” thì đã rơi vào ‘đệ nhị nghĩa’; cho dù nhẫn cũng chẳng cần, căn bản chẳng có nhẫn để nhẫn, đó gọi là ta chẳng phải ta.

“A Lợi Gia”: Ở trước đã giảng qua, tức là “Bậc Thánh”; nghĩa là phải hoàn toàn đảnh lễ Bậc Thánh của ta, tức là tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả Thiên Long Bát Bộ. Nghĩa là phải đảnh lễ Bậc Thánh của ta chẳng phải ta. Bậc Thánh đó rất nhiều, là ai ? Sẽ nói với bạn ở sau.

11. Bà Lô Kiết Ðế Thất Phật La Lăng Ðà Bà.

“Bà Lô Kiết Ðế”: Nghĩa cũng là “Quán”; “Thất Phật La”: Là “Tự Tại”, còn gọi là “Thế Âm”. Câu này nghĩa là “Quán Thế Âm”, cũng là “Quán Tự Tại”. “Quán Tự Tại”, “Quán Thế Âm” này, không nhất định nói Quán Thế Âm Bồ Tát mới gọi là Quán Thế Âm, Quán Tự Tại. Nếu bạn tự tại thì bạn là “Quán Tự Tại”; nếu bạn hay cứu độ chúng sinh thì bạn là “Quán Thế Âm”. Cho nên nếu bạn hay chiếu theo pháp học này thì bạn là hóa thân của Quán Thế Âm; tôi chiếu theo pháp học này thì tôi là hóa thân của Quán Thế Âm.

“Lăng Ðà Bà”: Dịch là “hải đảo”, tức là nơi trụ xứ của Bồ Tát Quán Thế Âm, tức cũng là “Phổ Ðà Sơn” ở Trung Quốc.

Phổ Ðà Sơn dịch là “Tiểu Bạch Hoa Sơn”, vì trên núi đó có loài hoa tiểu bạch nở. Nơi đây có một tảng đá tạo cung điện gọi là “cung từ ái”, tức là cung điện chỗ ở của Bồ Tát Quán Thế Âm, ở bên trong thánh diệu trang nghiêm giống như ở thiên cung, làm bằng bảy báu, song, không dễ gì đến được nơi đó.

Những gì nói ở trước là ‘người từ bi’, “Lăng Ðà Bà” ở sau tức là ‘cung từ bi’; cung điện từ bi, là cung điện trụ xứ của Bồ Tát Quán Thế Âm.

12. Nam Mô Na La Cẩn Trì.

Ðây là nói về mười thứ tâm của “Ðại Bi Tâm Ðà La Ni”. Trong Kinh ở trước nói có mười thứ tâm, là tướng mạo của “Ðà La Ni”, nên y chiếu mười thứ tâm này để tu hành.

“Nam Mô”: Ở đây vẫn là “quy mạng kính đầu”. “Na La” dịch là “hiền”; “Cẩn Trì” dịch là “ái”. Ðây gọi là người tu hành hiền ái thiện hộ. Hiền ái thiện hộ tức cũng là đại từ bi tâm, tức cũng là tâm cung kính, tức cũng như ở trước có nói về vô thượng bồ đề tâm.

Na La Cẩn Trì : Là đại từ bi tâm, Na La Cẩn Trì cũng là tâm cung kính, Na La Cẩn Trì còn là vô thượng bồ đề tâm. Ý nghĩa câu này đại biểu cho ba thứ tâm.

13. Hê Rị Ma Ha Bàn Ða Sa Mế.

“Hê Rị”: Dịch ra nghĩa là “tâm”. Tâm này là tâm gì ? Tức là tâm chẳng nhiễm ô. Tâm chẳng nhiễm ô, tức cũng là tâm thanh tịnh. Nếu bạn có tâm tham, sân, si, mạn, nghi, đủ thứ tâm chẳng thanh tịnh thì biến thành tâm nhiễm ô. Hiện tại là tâm chẳng nhiễm ô.

“Ma Ha Bàn Ða Sa Mế”. “Ma Ha” : Ý nghĩa vẫn là ‘đại’ (lớn). “Bàn Ða Sa Mế”: Nghĩa như thế nào ? Tôi không nói ra thì chắc chắn bạn chẳng biết, cho nên tôi nói ra thì bạn mới biết. Một khi tôi nói ra thì bạn nói : “Ồ ! Thì ra là thế”. Bạn sẽ biết ngay. Ðại gì ? Ðại quang minh. Còn có lối dịch khác nữa, nghĩa là gì ? Chữ “Ma Ha” đại này cũng có thể dịch thành chữ “trường”, trường chiếu minh, luôn luôn chiếu sáng.

Có người nói : “Ðại quang minh này, tôi đã nghe giảng Kinh rất nhiều lần”. Song, trong Chú Ðại Bi có ý nghĩa này, nếu tôi không giảng thì bạn đâu có biết. Tôi nói cho các bạn biết, Chú Ðại Bi chẳng dễ gì gặp được người giảng cho các bạn nghe. Thật tình mà nói, vốn cũng chẳng có ai giảng được, chẳng ai biết Chú Ðại Bi cứu kính như thế nào. Có người nói :”Vậy sao Hòa Thượng lại biết ?” Bạn đừng hỏi tôi, vì tôi chẳng hỏi bạn thì bạn không thể hỏi tôi sao tôi lại biết ? Tự nhiên tôi biết, nếu tôi không biết thì tôi đâu có giảng cho bạn nghe ? Bạn đừng có hỏi tôi sao tôi lại biết mà bạn phải hỏi chính bạn, sao bạn lại không biết ? Nếu bạn biết sao bạn lại không biết thì bạn sẽ biết sao tôi lại biết; nếu bạn không biết vì sao bạn lại không biết thì bạn cũng chẳng biết vì sao tôi lại biết, chỗ diệu là tại chỗ này.

Giống như có một người hỏi tôi :”Vì sao Hòa Thượng đi xuất gia ?” Tôi chẳng đáp tại sao tôi xuất gia mà tôi hỏi anh ta :”Vì sao anh không xuất gia ?” Nếu anh biết tại sao anh không xuất gia thì anh biết tại sao tôi xuất gia, cũng đồng đạo lý ấy. Bạn hỏi tôi sao tôi lại hiểu, bạn hãy tự hỏi bạn vì sao bạn không hiểu ? Thì bạn sẽ biết vì sao tôi hiểu.

Bây giờ các bạn gặp được sự giảng giải Chú Ðại Bi, đều là người có căn lành lớn, cho nên các bạn phải tự mình bảo hộ căn lành của mình, tự mình thương tiếc căn lành của mình, tự mình lợi dụng căn lành cố hữu của bạn để học tập Phật pháp.

Hiện nay chúng ta sinh vào thời đại mạt pháp, tất cả chư Phật rất ít đến thế giới nầy, tất cả Bồ Tát cũng rất ít đến thế giới nầy. Vào thời đại mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối, chẳng dễ gì gặp được chánh pháp, cũng chẳng dễ gì gặp bậc tu hành. Cho nên lần này tôi nghĩ ở Ðài Loan có Chùa mở đại giới đàn bèn gởi năm người (năm vị đệ tử người Mỹ đầu tiên) đến Ðài Loan thọ giới. Năm người này sau khi thọ giới xong trở về nói :”Có rất nhiều người kêu họ đừng tu hành”. Bạn nghĩ xem, chúng ta là chúng sinh, không tu hành thì làm sao có thể thành Phật đặng ? Làm sao không tu hành mà có thể liễu đạo được ? Nếu bạn chẳng tu hành mà có thể thành Phật, có thể liễu đạo được thì lúc ban sơ Phật cũng chẳng cần tu khổ hạnh, tham thiền đả tọa sáu năm ở tại núi Tuyết, sau đó đến dưới cội bồ đề ngồi bốn mươi chín ngày, ban đêm thấy sao mai mộc mà ngộ đạo. Ðức Phật còn phải tu hành mới có thể thành Phật; chúng ta chúng sinh nếu không tu hành thì làm sao có thể thành Phật ? Ai ai cũng biết tu hành mới có thể thành Phật, song, người tu hành thì rất ít; ai ai cũng biết không tu hành thì sẽ đọa địa ngục, song, người chẳng tu hành thì không biết bao nhiêu mà nói. Thời đại mạt pháp, nếu chúng ta nghe thấy Phật pháp thì hãy dũng mãnh tinh tấn, từng giờ từng phút, đừng nên lười biếng, tinh tấn dụng công tiến về trước, mới có thể có sự thành tựu. Nếu chẳng dũng mãnh tinh tấn mà muốn thành tựu, thì không bao giờ có được. Cho nên mọi người đừng sợ khổ, đừng sợ khó khăn, trong sự bận rộn, phấn chấn tinh thần lên, phải hăng hái tu hành, dũng mãnh dụng công tiến về trước để nỗ lực học Phật pháp.

Phật pháp mà tôi nói rất diệu, song, nếu bạn chẳng tin thì đối với bạn cũng chẳng có ích lợi. Phật pháp mà tôi nói, nói đến nỗi chẳng có ý nghĩa gì hết, mà bạn thật tâm tu hành thì đối với bạn cũng là diệu pháp; diệu pháp mà tôi nói nếu bạn chẳng thực hành thì đối với bạn cũng chẳng phải là diệu pháp. Cho nên chúng ta tu hành phải từng giờ từng phút tinh tấn tiến về trước, đừng lùi về sau, đừng sinh tâm lười biếng, đây là điều quan trọng nhất. Nếu từng giờ từng phút bạn tinh tấn tiến về trước thì chắc chắn có một ngày bạn sẽ nhận ra bộ mặt thật của bạn.

Vào thời vua Lương Võ Ðế, Thiền Sư Chí Công là bậc tu hành có đức hạnh, chẳng có ai biết cha mẹ của Ngài là ai. Một ngày nọ, có một phụ nữ nghe tiếng trẻ con khóc ở trên cây, bèn trèo lên cây thì thấy đứa bé nằm trong tổ chim ưng, bà ta bồng em bé về nhà nuôi dưỡng. Em bé này tướng mạo tựa như hình người , song, tay chân tựa như móng chim ưng. Lớn lên rồi xuất gia tu đạo, khai ngộ đắc ngũ nhãn lục thông. Vì chẳng có ai biết cha mẹ của Ngài là ai, lượm Ngài từ tổ chim ưng, cho nên một số người đều cho rằng Ngài từ trứng chim nở ra.

Vào thời đó, vua Lương Võ Ðế rất tin tưởng Thiền Sư Chí Công, mà một số người khác cũng rất tin Ngài, bất cứ trường hợp gì, nào sinh đẻ, bạn bè chết, đám cưới, tang lễ .v.v., họ đều thỉnh mời Thiền Sư Chí Công đi tụng Kinh. Một lần nọ, có một gia đình giàu có thỉnh Thiền Sư Chí Công đến tụng Kinh cho cuộc hôn nhân và thỉnh Ngài trong cuộc hôn lễ nói vài câu cát tường, khiến cho cuộc hôn nhân thuận lợi tốt đẹp.

Thiền Sư Chí Công đến đó, vừa thấy chú rể và cô dâu bèn nói :”Cổ cổ quái, quái quái cổ, tôn tử thú tổ mẫu”. Nghĩa là sự việc này xưa nay chẳng có, đây là sự việc chẳng tầm thường, việc rất kỳ quái, ai đời cháu lại cưới bà ngoại. Trên thế giới này, mọi người làm vợ chồng với nhau, làm cha con với nhau, làm mẹ con với nhau. Nếu bạn chẳng biết nhân duyên trong đời quá khứ thì bạn chẳng hiểu rõ tại sao ông nội của bạn trong kiếp trước, đời nay đến kết hôn với bạn ? hoặc là bà ngoại của bạn lại đầu thai làm con của bạn ? Ðây hoàn toàn không nhất định.

Sự việc “cháu cưới bà ngoại” này, là vì trước khi bà ngoại qua đời, bà ta nói với mọi người :”Cháu của ta chẳng còn cha mẹ của nó, tương lai ai sẽ săn sóc cho nó ? Vợ tương lai của nó có tốt với nó chăng ? Tôi thật rất lo cho nó lắm !”.

Lúc đó, bà ta nắm tay người cháu nói :”Cháu ơi ! Bà không đành bỏ cháu ra đi, bà chết rồi, cũng không nhắm mắt”. Mắt không nhắm cũng vẫn chết, bà ta chết chẳng nhắm mắt. Ðến trước mặt vua Diêm Vương, còn muốn yêu cầu săn sóc cho cháu của bà ta, nói :”Cháu của tôi, tôi thấy chẳng có ai săn sóc cho nó, tôi thật lo cho nó !” Vua Diêm Vương nói :”Tốt lắm, vậy thì bà về săn sóc cho nó !” Do đó lập tức cho bà ta đi đầu thai; lớn lên rồi thì cho bà ta làm vợ người cháu. Do đó gọi là “cháu cưới bà ngoại”. Bà ngoại chẳng buông bỏ được người cháu, trở lại bèn làm vợ của người cháu, bạn nó có phải là cổ cổ quái, quái quái cổ chăng ? hay là chẳng phải cổ cổ quái, quái quái cổ ?

Ngài Chí Công tại sao biết được? Vì Ngài Chí Công có ngũ nhãn lục thông, khi Ngài vừa gặp cô dâu chú rể thì cô dâu vốn là bà ngoại, vì bà ta một niệm buông xả chẳng đặng, cho nên phải trở lại làm vợ của người cháu.

Thiền Sư Chí Công lại nhìn mọi người thì thấy có một cô con gái cầm miếng thịt ăn, Ngài lại nói :”Con ăn thịt mẹ”. Miếng thịt mà cô con gái đang ăn, vốn là thịt của mẹ cô đầu thai làm dê, bây giờ con dê này bị giết, cô ta cầm thịt dê này lên ăn.

Ngài liền nhìn người đánh trống bèn nói :”Con đánh trống cha”. Da trống này chính là cha của anh ta đầu thai làm lừa, con lừa này bị giết, lấy da bịt làm trống.

Ngài lại nhìn vào các dãy bàn bèn nói :”Heo dê ngồi vào bàn”. Những loài heo, dê này, kiếp trước bị họ ăn thịt, bây giờ đều tái sinh làm người, đều làm bà con, làm bạn bè với họ, cho nên đều đến nhà đó để dự hôn lễ.

“Lục thân nấu trong nồi”, thân tộc bên cha, thân tộc bên mẹ, thân tộc bên anh bên em, tất cả bạn bè, thân hữu trước kia ăn thịt heo, thịt dê, bây giờ đều biến thành heo, dê, lại bị họ giết bỏ vào nồi nấu.

“Mọi người đến chúc mừng”. Mọi người đến đó, thấy anh ta cưới cô dâu đều nói :”Chúc mừng anh !” Người này đến chúc mừng, người kia đến chúc mừng, cảnh trạng như thế, “tôi thấy đó là khổ”, tôi thấy cảnh trạng như thế, tức là tạo nghiệp; tạo nghiệp nghĩa tức là khổ.

Do Ngài Chí Công nhìn thấu nhân quả của gia đình đó. Gia đình đó thì như thế, còn những gia đình khác, làm sao mà biết chẳng phải như thế ? Cho nên người tu đạo thì phải cẩn thận; lúc trồng nhân không cẩn thận thì khi hết quả phải gánh lấy. Vậy con người tại sao lại làm người ? Chúng ta làm người là đến để trả nợ. Trả nợ gì ? Trả nợ luân thường, trả nợ nhân quả thế gian. Bạn còn món nợ này thì phải trả món nợ này, bạn không trả thì không được, cũng như chúng ta mượn tiền của người thì phải trả tiền cho người; bạn không trả thì nợ không dứt được. Con người trên thế gian cũng như thế.

Tôi lại nhớ đến một câu chuyện. Có một gia đình nọ nuôi một con lừa, hằng ngày bắt con lừa chuyên chở nặng nề. Anh ta thấy con lừa đi chậm thì hằng ngày đều dùng cây chổi tre đánh con lừa, ngày nào cũng đánh, kêu nó làm cho anh ta. Một đời làm xong rồi thì con lừa đó tái sinh làm người đàn ông; còn người đàn ông đánh con lừa đó thì tái sinh làm người đàn bà. Hai người này kết hôn với nhau. Kết hôn rồi bạn nói xảy ra chuyện gì ? Người đàn ông này suốt ngày cứ đánh người đàn bà này, bất cứ cầm cái gì thì đánh cái đó, hoặc là cầm đũa ăn cơm thì lấy đũa đánh, suốt ngày đánh chưởi nói cô ta làm gì cũng không đúng.

Một ngày nọ, Thiền Sư Chí Công đến thì cô ta bèn thưa rằng :” Chồng của con, không biết tại sao ngày nào cũng đánh con ? Ngài là người tu hành, đắc được ngũ nhãn lục thông, Ngài hãy xem nhân quả của chúng con như thế nào, tại sao ngày nào con cũng bị đánh ?” Thiền Sư Chí Công nói :” Chao ôi ! kiếp trước của con là người đàn ông, con dùng một con lừa để chuyên chở, mà con ngày nào cũng đánh con lừa đó, con lừa đó nay tái sinh làm chồng của con. Bây giờ con phải giải mở oán kết này, ta dạy con một phương pháp. Con hãy dọn dẹp hết đồ đạc lại, chỉ để lại một cây phất trần làm bằng đuôi ngựa. Con để cây phất trần ở đó thì anh ta thấy chẳng có gì khác để đánh, thì lấy cây phất trần đánh con; đánh con xong rồi thì con nói với anh ta, vì kiếp trước con là người đàn ông, còn anh ta là con lừa, vì bị con hằng ngày đánh, cho nên bây giờ anh ta cũng đánh con hằng ngày. Bây giờ anh ta dùng phất trần đuôi ngựa đánh con, chỉ một cái đánh thì có mấy trăm hèo. Cho nên anh ta đánh con một cái thì hôm nay đã trả xong món nợ trong quá khứ. Sau khi con nói rõ với anh ta thì anh ta sẽ không còn đánh con nữa”.

Quả nhiên cô ta dẹp hết đồ đạc lại, chồng của cô ta về cũng chẳng nói năng gì thì muốn đánh cô ta, đi tìm đồ để đánh thì chẳng thấy, chỉ thấy phất trần bằng đuôi ngựa bèn lấy đánh. Trước kia anh ta đánh thì cô ta chạy, song, lần này đánh thì cô ta ngồi tại chỗ chịu đánh. Khi anh ta đánh xong rồi thì anh ta hỏi :”Sao lúc trước tôi đánh thì bà bỏ chạy, còn hôm nay tôi đánh thì bà sao chẳng bỏ chạy ?” Cô ta nói :”Ông không biết đâu, sở dĩ ông đánh tôi là có tiền nhân hậu quả. Hôm nay Thiền Sư Chí Công đến đây, tôi thỉnh giáo Ngài, tại sao ngày nào ông cũng đánh tôi ? Thì Ngài nói với tôi, kiếp trước ông là một con lừa, còn tôi là một người đàn ông, nuôi con lừa đó dùng để chở đồ, vì con lừa đi chậm nên hằng ngày tôi đều đánh con lừa đó; kiếp này ông đầu thai làm người đàn ông, còn tôi biến thành người đàn bà, hai người kết hôn, cho nên hằng ngày ông đều đánh tôi. Ngài dạy tôi để cây phất trần ở đó, đợi ông về đánh tôi thì tôi đừng bỏ chạy. Hôm nay ông đánh xong rồi thì sự tình của chúng ta chẳng còn nữa, về sau chẳng còn đánh nữa”. Người chồng nghĩ: “Thì ra là như thế, từ nay về sau tôi không đánh nữa, nếu ngày nay tôi đánh bà thì ngày sau bà sẽ đánh tôi”. Từ đó về sau hai vợ chồng chẳng còn đánh nhau nữa.

Từ đó có thể thấy, trên thế gian này ai với ai có duyên hoặc không có duyên, ai với ai là vợ chồng, cha con, anh em thì trong quá khứ đều có nhân quả, cho nên đời này mới làm quyến thuộc. Nếu chúng ta minh bạch nhân quả thì hãy sửa đổi nhân quả; phải làm việc tốt, đừng làm việc xấu.

Lúc trước tôi có nói Thiền Sư Chí Công mỗi ngày ăn hai con bồ câu, ngày nào cũng đều ăn như thế. Người làm bếp nghĩ rằng thịt bồ câu chắc rất là ngon, một ngày nọ trong sự “hữu ý vô ý”. Hữu ý vô ý là gì ? Nghĩa là muốn thưởng thức, ở đây có hai ý nghĩa : Một là không biết hôm nay nấu như thế nào ? Hai là cho rằng Thiền Sư Chí Công ngày nào cũng ăn bồ câu, chắc chắn là rất ngon. Do đó, bèn thưởng thức rồi mới mang đến cho Ngài Chí Công. Ngài Chí Công ăn con bồ câu này bèn hỏi :”Hôm nay ai ăn lén bồ câu của ta ?”. Người làm bếp nói :”Chẳng có ai ăn lén đâu”. “Chẳng có ai ăn lén ? Chắc chắn là ngươi ăn lén”. Người nấu bếp chẳng chịu nhận, nói :”Tôi không ăn”. Ngài Chí Công nói :”Ngươi chẳng ăn ? Ta chứng cứ cho ngươi xem thử ngươi có ăn hay chăng ?” Ngài bèn hả miệng ra thì phun ra hai con bồ câu, có một con bay được, còn một con chẳng có cánh, bay không được. Ngài nói: ” Ngươi xem đi, nếu ngươi chẳng ăn lén cánh bồ câu thì sao con bồ câu này bay không được ? Vậy cánh của nó đâu?”. Người làm bếp từ đó mới biết Ngài Chí Công chẳng phải là người tầm thường, là Bồ Tát hóa thân. Cho nên ăn bồ câu nấu chín rồi mà vẫn có thể biến thành bồ câu sống. Nếu chẳng phải cảnh giới của Bồ Tát thì sao lại có cảnh trạng này ?

Ngài Thiền Sư Chí Công vẫn thường thường ăn một loại cá, thứ cá này gọi là ‘huệ ngư’. Ngài ăn cá này, cũng đã nấu chín ăn vào bụng, sau đó vẫn có thể phun ra biến thành cá sống. Ðó là cảnh giới của bậc Bồ Tát, đó đều là việc rất bình thường. Giống như Ngài Chí Công Thiền Sư là Bồ Tát chân chánh. Song, Thiền Sư Chí Công vốn chẳng nói với ai rằng :”Bạn biết tôi chăng ? Tôi là Bồ Tát, tôi muốn làm gì thì làm”. Ngài chẳng bao giờ nói như thế. Cho nên chúng ta phàm phu thấy được Bồ Tát cũng chẳng nhất định biết rõ. Việc Bồ Tát làm với mọi người đều giống nhau, chỉ khác một chỗ là đa số mọi người làm chỉ biết lợi mình, chẳng giúp đỡ người khác; còn Bồ Tát thì lợi ích cho kẻ khác. Cho nên Bồ Tát khác với phàm phu là ở chỗ này. Bồ Tát thì tự lợi lợi tha, tự giác giác tha, tự độ độ tha. Chúng ta giảng Chú Ðại Bi, ý nghĩa trong Chú cũng đều là đạo lý này.

14. Tát Bà A Tha Ðậu Du Bằng.

Câu Chú này phải chia ra ba câu để đọc, vì câu Chú này có ba ý nghĩa khác nhau.

“Tát Bà” : là tiếng Phạn, dịch là “tất cả”. Tất cả ở đây nghĩa là “bình đẳng”, do đó “Tát Bà” tức là nói “tâm bình đẳng”.

“A Tha Ðậu” : Cũng là tiếng Phạn, dịch là “giàu sướng không nghèo”. Giàu là giàu có, sướng là sung sướng. Tại sao giàu có sung sướng ? Vì không nghèo. Ðó là một lối dịch. Còn có một lối dịch khác là “như ý bất diệt”. Như ý tức là bạn nghĩ gì thì theo ý của bạn mà thành tựu; bất diệt, nghĩa là thành tựu theo như ý, vĩnh viễn không tiêu diệt. Ở trong mười thứ tâm này, là nói về “tâm vô vi”. Tâm vô vi này tức là giàu sướng không nghèo, cũng là như ý bất diệt.

“Du Bằng”: Cũng là tiếng Phạn, dịch ra là “nghiêm tịnh vô ưu”. Nghiêm tức là trang nghiêm; tịnh là thanh tịnh. Tức trang nghiêm lại thanh tịnh, thanh tịnh lại trang nghiêm, cho nên chẳng có ưu sầu. Nghĩa là nói về “tâm vô kiến thủ”, kiến thủ là thuộc về một trong năm lợi sử, bạn nhìn thấy thì trong tâm có sự thủ trước nên gọi là tâm kiến thủ.

15. A Thệ Dựng.

“A Thệ Dựng”: Cũng là đại Phạm Thiên, dịch ra là nghĩa gì ? Tức là “pháp vô tỷ”, pháp này chẳng có pháp nào sánh với nó. Còn gọi là “giáo vô tỷ”, giáo này cũng chẳng có tôn giáo nào có thể sánh được. Trong mười thứ tâm thì thuộc về “tâm thấp kém”, thấy ai cũng đều khiêm cung hòa mục và “tâm chẳng tạp loạn”. Pháp này là pháp thanh tịnh chẳng nhiễm ô, tức cũng là Bát Nhã tâm pháp của Bồ Tát Quán Thế Âm. Chiếu theo Kinh Ðại Bi Ðà La Ni mà nói thì mười thứ tâm này là tướng mạo của Ðà La Ni. Cho nên chúng ta hãy chiếu theo Kinh Ðà La Ni để tu hành, chiếu theo Kinh Ðà La Ni để thành đạo chứng quả.

16. Tát Bà Tát Ða, Na Ma Bà Tát Ða, Na Ma Bà Già.

“Tát Bà Tát Ða” là tiếng Phạn, dịch là “Bồ Tát Ðại Thân Tâm”. “Na Ma Bà Tát Ða” cũng là tiếng Phạn, dịch là “Ðồng Trinh Khai Sĩ”. Ðồng Trinh Khai Sĩ là gì ? Tức cũng là một tên khác của Pháp Vương Tử. Phật là Ðấng Pháp Vương, Bồ Tát là con của Ðấng Pháp Vương. Ðồng Trinh, tức là “bản tánh”. Khai Sĩ cũng là tên khác của Bồ Tát; Bồ Tát có khi gọi là Ðại Sĩ, có khi gọi là Khai Sĩ. Bồ Tát nhập vào Phật vị, cho đến Bồ Tát Thập Ðịa cũng đều gọi là Pháp Vương Tử.

“Na Ma Bà Già” : Na Ma cũng là tiếng Phạn, dịch là “Vô Ðẳng Ðẳng Chú”.

Trong Tâm Kinh có phải có “Vô Ðẳng Ðẳng Chú” chăng ? Vô đẳng tức là chẳng có gì có thể bình đẳng được với Ngài, Ngài là ai ? là “Bà Già”. Bà Già cũng là tiếng Phạn, dịch là “Thế Tôn”, tức cũng là mười phương chư Phật.

17. Ma Phạt Ðạt Ðậu.

“Ma Phạt Ðạt Ðậu” là tiếng Phạn, dịch là “thiên thân thế hữu”. Ý nghĩa câu Chú này là Bồ Tát gia bị cho ta , hộ trì ta, làm thiên thân với ta; thế hữu là bằng hữu thế gian, thành tựu tất cả các pháp, hết thảy tất cả các pháp lành đều có thể thành tựu. Câu Chú này là cầu chư Phật Bồ Tát đến gia hộ cho mình.

18. Ðát Ðiệt Tha, Án.

“Ðát Ðiệt Tha” lại là Tiếng Phạn, dịch ra là gì ? Tức là trong Tâm Kinh có nói “Tức Thuyết Chú Viết”. Tức Thuyết Chú Viết tức là Ðát Ðiệt Tha; Ðát Ðiệt Tha cũng là Tức Thuyết Chú Viết (Chú ấy nói rằng). Ðát Ðiệt Tha lại dịch là “sở vị”. Ðây là Bồ Tát Quán Thế Âm dùng tâm đại bi nói ra Chân Ngôn (bài Chú) này, nói ra Chú chữ Phạn này, lại nói ra đủ thứ thủ ấn (dùng tay kết ấn), lại nói ra trí nhãn này (Ngài làm mắt trí huệ cho chúng sinh). Ðó đều là đủ thứ pháp môn. Ðát Ðiệt Tha tức cũng cần nói đủ thứ pháp môn này. Phải nói đủ thứ trí nhãn, cho nên dịch là “sở vị” (điều muốn nói).

“Án” : Ở trên đã giảng rồi. Bạn đọc chữ Án này thì tất cả quỷ thần đều chắp tay cung kính, nghe hiệu lệnh của bạn. Chữ Án này sinh ra những ý nghĩa dưới đây.

19. A Bà Lô Hê.

“A Bà Lô Hê” cũng là tiếng Phạn, dịch là “Quán Âm”. A Bà Lô Hê tức là Quán Âm; Quán Âm cũng là A Bà Lô Hê, tôi tin rằng A Bà Lô Hê tức là Avalokite, âm cũng gần giống nhau.

Quán âm là gì ? Tức là quán âm thanh thế gian. Dùng gì để quán ? Ngài dùng trí huệ để quán sát tất cả âm thanh thế gian. Âm thanh thế gian có rất nhiều thứ, Bồ Tát Quán Âm quán âm thanh khổ của thế gian, âm thanh bi của thế gian, âm thanh thọ nạn của mọi người ở thế gian, cho nên gọi là Quán Âm.

20. Lô Ca Ðế.

“Lô Ca Ðế” cũng là tiếng Phạn, dịch ra là “Quán Tự Tại”, lại dịch là “Thế Tôn”. Hợp lại với câu Chú ở trên là “Quán Âm Tự Tại”.

Hòa Thượng TUYÊN HÓA

Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Minh Ðịnh
sites.google.com/site/chudhaibi365/chu-dai-bi-giang-giai

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.