Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Quyển 1 – 2

PHẦN THỨ NHẤT – PHẦN TỰA

CHƯƠNG I

TỰA CHUNG

Như vậy tôi được nghe trong một thời, Phật ở tịnh xá Kỳ-Hoàn thành Thất-La-Phiệt, cùng với chúng đại-tỷ-khưu một nghìn hai trăm năm mươi vị, đều là bậc vô lậu Ðại-A-la-hán. Các vị phật-tử trụ-trì, khéo vượt trên chư hữu, ở các quốc-độ đầy-đủ uy-nghi, theo Phật chuyển Pháp-luân, có khả-năng thật-hiện lời di-chúc nhiệm-mầu của Phật, nghiêm-giữ giới-luật thanh-tịnh để làm khuôn phép cho ba cõi, hiện thân vô số, cứu-vớt chúng-sinh, tột đời vị-lai, khỏi các trần-lụy. Các vị tên là : Ðại-trí Xá-lỵ-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Ma-ha Câu-si-la, Phú-lâu-na-di-đa-la-ni-tử, Tu-bồ-đề, Ưu-ba-ni-sa-đà làm thượng-thủ.
Lại có vô số các vị Bích-chi vô-học và sơ-tâm đồng đến chổ Phật giảng đạo.
Nhằm ngày các vị tỷ-khưu mãn hạ tự-tứ, các vị Bồ-tát, từ mười phương đến, xin Phật giải-quyết nghi-hoặc, kính vâng đức Từ-Nghiêm, thỉnh-cầu nghĩa thâm-mật.
Ðức Như-Lai giải pháp-tọa, ngồi khoan-thai, vì cả trong Hội tỏ-bày nghĩa sâu. Chúng Hội thanh-tịnh được pháp chưa từng có. Giọng nói của Phật hòa-nhã như tiếng chim ca-lăng-tầng-già, nghe khắp mười phương. Hằng sa Bồ-tát đều đến đạo-trường, có ngài Văn-thù-sư-lỵ làm thượng-thủ.

CHƯƠNG II

TỰA RIÊNG

DUYÊN-KHỞI CỦA KINH

Khi ấy vua Ba-tư-nặc, nhân ngày kỵ phụ-vương, mở tiệc chay mời Phật thụ-trai nơi cung-cấm; vua sắm đủ các món ăn quý-báu, rồi thân đến rước Phật và các vị Ðại-Bồ-Tát. Trong thành lại có các trưởng-giả cư-sĩ đồng-thời cùng trai-tăng, chờ Phật đến chứng. Phật khiến ngài Văn-thù chia lãnh các vị Bồ-Tát và A-la-hán đi đến các nhà trai-chủ.
Duy có ông A-nan trước đả nhận lời mời riêng, đi xa chưa về, không kịp dự hàng tăng-chúng. Ông về một mình, không có Thượng-tọa và A-xà-lê cùng đi và ngày ấy cũng không được ai cúng-dường. Lúc bấy giờ ông cầm bình-bát vào trong một thành trên đường đi, theo thứ lớp khất-thực; tâm ông trước hết cầu được một người tối hậu đàn-việt làm trai-chủ, không kể sang hèn, phát-tâm làm sao cho tất-cả chúng sinh được viên-thành vô lượng công-đức. Ông A-nan đã biết đức Phật Thế-Tôn quở ông Tu-bồ-đề và ông Ðại-ca-diếp làm A-la-hán mà tâm không công-bằng. Ônh kính vâng lời dạy vô giá của Phật độ-thoát mọi điều chê-bai nghi-hoặc. Ông đến bên thành, thong-thả vào cửa, uy-nghi nghiêm-chỉnh, kính giữ phép hóa-trai.
Trong khi khất-thực, ông A-nan đi qua nhà người dâm-nữ Ma-đăng-già, bị phép huyển-thuật. Nàng ấy dùng tà-chú Tiên-phạm-thiên đạo Sa-tỳ-ca-la bắt vào phòng riêng, dựa-kề vuốt-ve làm cho ông A-nan gần phá giới-thể.
Ðức Như-lai biết ông A-nan mắc phải dâm-thuật, nên dùng trai rồi, liền trở về tịnh-xá. Vua cùng đại-thần, trưởng-giả cư-sĩ đều đi theo Phật, mong nghe những pháp chủ-yếu của đạo Phật.
Khi ấy trên đỉnh đức Thế-tôn, phóng hào-quang bách-bảo vô-úy; trong hào-quang hiện ra tòa sen báu nghìn cánh, có hóa-thân của Phật kết-già ngồi trên, tuyên-đọc thần-chú, khiến ngài Văn-thù đem chú nầy đến giúp-đỡ, tiêu-diệt tà-chú, đưa ông A-nan cùng nàng Ma-đăng-già đều về chỗ Phật ở.
Ông A-nan thấy Phật, đỉnh-lễ khóc-lóc, giận mình từ vô-thủy đến nay, một bề học rộng nhớ nhiều, chưa toàn đạo-lực, tha-thiết xin Phật dạy cho những phép xa-ma-tha, tam-ma, thiền-na, là những phương-tiện tu-hành đầu tiên để thành đạo Bồ-đề của thập phương Như-lai. Lúc ấy lại có hằng-sa Bồ-tát, Ðại-A-la-hán và Bích-chi-Phật, từ mười phương đến, thảy đều mong nghe Phật dạy, lui về chổ ngồi, yên-lặng lĩnh-thụ thánh-chỉ của Phật.

PHẦN THỨ HAI – PHẦN CHÍNH-TÔNG

CHƯƠNG ICHỈ NGAY CHỖ VIÊN-NGỘ

MỤC I  – GẠN-HỎI CÁI TÂM

ÐOẠN I  – NÊU TRƯỚC NGUYÊN-DO CỦA THƯỜNG-TRỤ VÀ LƯU-CHUYỂN

Phật bảo ông A-nan: “Tôi với ông đồng phái, tình như anh em ruột; lúc ông mới phát-tâm thì ở trong Phật-pháp, thấy những tướng tốt gì mà bỏ được những ân-ái sâu-nặng thế-gian?”
Ông A-nan bạch Phật: “Tôi thấy 32 tướng của Như-lai tốt-đẹp lạ thường, hình-thể sáng-suốt như ngọc lưu-ly, thường tự suy-nghĩ: Tướng ấy không thể do dục-ái sinh ra, vì sao? giống dâm-dục nhơ-nhớp, tanh-hôi kết-cấu, máu mủ xen-lộn, làm sao sinh được thân vàng thắm chói trong-sạch sáng-suốt như vậy, nên tôi ước-mong, cắt tóc theo Phật tu-học”.
Phật dạy: “Hay thay, A-nan, các ông nên biết hết thảy chúng-sinh từ vô-thủy đến nay sống chết nối luôn, đều do không biết thể-tính trong-sạch sáng-suốt của thường-trụ chân-tâm mà lại chỉ dùng các vọng-tưởng, vì vọng-tưởng đó không chân-thật nên mới có luân-hồi. Nay ông muốn học đạo vô-thượng Bồ-đề, phát-minh chân-tính thì nên lấy tâm ngay-thẳng mà đáp lại những câu hỏi của tôi. Thập phương Như-lai đều do một đường thoát-ly sinh-tử là dùng tâm ngay-thẳng. Tâm mà nói là ngay-thẳng thì cứ như vậy, từ địa-vị đầu đến địa-vị cuối cùng, chặng giữa, hẳn không có những tướng quanh-co.
A-nan, nay tôi hỏi ông : “Ðương khi ông do 32 tướng của Như-lai mà phát-tâm thì ông đem cái gì mà thấy và cái gì ưa-muốn?”
Ông A-nan bạch Phật: “Thưa Thế-tôn, ưa-muốn như vậy là dùng cái tâm và con mắt của tôi. Do mắt thấy tướng tốt Như-lai, tâm sinh ưa-muốn nên tôi phát-tâm muốn tu-hành thoát khỏi sống chết”.
Phật bảo ông A-nan: “Như lời ông nói : Thật do tâm và con mắt mà có ưa muốn. Nếu không biết tâm và con mắt ở đâu thì không thể hàng-phục được trần-lao; ví như ông vua một nước bị giặc xâm-lấn, phát-binh đánh-dẹp, thì binh ấy cần biết giặc ở chỗ nào mới đánh-dẹp được. Hiện ông còn mắc phải luân-hồi là lỗi tại tâm và con mắt của ông”. Nay tôi hỏi ông: “Tâm và con mắt ấy hiện ở chỗ nào?”

ÐOẠN II  – CHẤP TÂM Ở TRONG THÂN

Ông A-nan bạch Phật : “Thưa Thế-Tôn tất-cả mười loài chúng-sinh trong thế-gian đều cho cái tâm hay biết là ở trong thân. Dầu tôi xem con mắt như hoa sen xanh của Như-lai cũng ở trên mặt Phật; tôi thấy con mắt vật-chất của tôi ở trên mặt tôi. Như vậy thì tâm hay biết thật ở trong thân”.

Phật bảo ông A-nan : “Hiện nay ông ngồi trong giảng-đường Như-lai. Ông hãy xem rừng Kỳ-đà hiện ở chỗ nào?”

– Thưa Thế-tôn, giảng-đường cao lớn thanh-tịnh này ở trong vườn Cấp-cô-độc, còn rừng Kỳ-đà hiện thật ở ngoài giảng-đường.

– A-nan, nay ông ở trong giảng-đường thì ông thấy cái gì trước?

– Thưa Thế-tôn, tôi ở trong giảng-đường, trước thấy Như-lai, sau xem đại-chúng, rồi trông ra ngoài thấy vườn rừng.

– A-nan, do đâu ông thấy được vườn rừng?

– Thưa Thế-tôn, do các cửa giảng-đường mở rộng nên tôi ở trong thấy suốt được đến ra ngoài xa.

Khi ấy đức Thế-tôn, ở trong đại-chúng, đưa cánh tay kim-sắc xoa đầu ông A-nan, chỉ-bảo ông A-nan và đại-chúng rằng : “Có pháp Tam-ma-đề tên là Đại-phật-đỉnh-thủ-lăng-nghiêm-vương, gồm đủ muôn hạnh. Thập phương Như-lai đều do một pháp-môn ấy vượt lên đường diệu-trang-nghiêm. Ông nên chăm-chú lắng nghe”. Ông A-nan đỉnh-lễ, kính vâng lời Phật dạy.

Phật bảo ông A-nan: “Như ông vừa nói: Ở trong giảng-đường, do cửa mở rộng nên ông trông xa thấy được rừng vườn; phỏng có chúng-sinh nào ở trong giảng-đường, không thấy Như-lai mà lại thấy được ngoài giảng-đường chăng?”

Ông A-nan bạch Phật: “Thưa Thế-tôn, ở trong giảng-đường không thấy Như-lai mà thấy được rừng suối ở ngoài, thật không có lẽ nào như vậy”.

– A-nan, chính ông cũng vậy. Cái tâm của ông rõ-biết hết thảy. Nếu hiện nay cái tâm rõ-biết ấy thật ở trong thân thì trước hết nó phải rõ-biết trong thân-thể. Vậy có chúng-sinh nào, trước thấy bên trong thân, rồi sau mới thấy những vật ở ngoài không? Dầu không thấy được tim gan tì vị, nhưng móng tay mọc, tóc dài ra, gân chuyển, mạch nhảy, lẽ phải rõ-biết, sao lại không biết? Đã không biết bên trong, sao lại biết được bên ngoài? Vậy nên biết rằng ông nói cái tâm hay-biết hiện ở trong thân, thật không có lẽ nào như vậy.

ĐOẠN III – CHẤP TÂM Ở NGOÀI THÂN.

Ông A-nan cúi đầu bạch Phật: “Tôi nghe lời Phật dạy như vậy, mới rõ tâm tôi thật ở ngoài thân. Vì sao? Ví như đèn thắp trong phòng, trước hết phải chiếu trong phòng, rồi sau mới do nơi cửa chiếu sáng ngoài sân. Hết thảy chúng-sinh không thấy bên trong thân mà riêng thấy bên ngoài, cũng như ngọn đèn, để ở ngoài phòng, không thể chiếu sáng trong phòng. Nghĩa ấy rõ-ràng, có lẽ không lầm, chưa biết có đúng với nghĩa-lý rốt-ráo của Phật hay không?”

Phật bảo ông A-nan: “Vừa rồi, các tỷ-khưu theo tôi khất-thực trong thành Thất-la-phiệt, nay đã về rừng Kỳ-đà. Tôi đã thụ-trai rồi, ông hãy xem trong hàng tỷ-khưu, khi một người ăn thì các người khác có no không?”

Ông A-nan bạch Phật: “Thưa Thế-tôn, không; vì rằng các tỷ-khưu tuy là A-la-hán, nhưng thân-thể khác nhau, lẽ nào một người ăn lại làm cho cả chúng đều no được”.

Phật bảo ông A-nan: “Nếu cái tâm hay-biết của ông thật ở ngoài thân thì thân và tâm riêng-cách, tất-nhiên không dính-líu gì với nhau; vậy cái gì tâm biết thì thân không thể hay, cái gì thân hay thì tâm không thể biết. Nay tôi giơ tay đâu-la-miên cho ông xem, trong khi mắt ông thấy thì tâm ông có biết là tay của tôi không?”

Ông A-nan bạch Phật: “Thưa Thế-tôn, đúng thế”.

Phật bảo ông A-nan: “Nếu thân với tâm cùng hay-biết một lúc với nhau thì làm sao tâm lại ở ngoài thân? Vậy nên biết rằng ông nói tâm hay-biết hiện ở ngoài thân, thật không có lẽ nào như vậy”.

ĐOẠN IV – CHẤP TÂM NÚP SAU CON MẮT

Ông A-nan bạch Phật: “Thưa Thế-tôn, như lời Phật dạy: vì không thấy bên trong, tâm không ở trong thân, vì thân tâm cùng biết, không thể rời nhau, tâm không ở ngoài thân, nay tôi suy-nghĩ, biết tâm ở một chỗ!”

Phật dạy: “Chỗ ấy ở đâu?”

Ông A-nan bạch Phật: “Cái tâm hay-biết đã không biết bên trong mà lại thấy bên ngoài, theo ý tôi nghĩ thì nó núp sau con mắt. Ví như có người lấy chén lưu-ly úp vào hai con mắt, con mắt tuy có vật úp vào nhưng không làm ngăn-ngại, con mắt kia liền thấy thì liền phân-biệt được ngay. Song tâm hay-biết của tôi không thấy bên trong là vì tâm ở nơi con mắt; nhưng lại thấy bên ngoài rõ-ràng, không bị ngăn-ngại, là vì tâm núp sau con mắt”.

Phật bảo ông A-nan: “Như ông vừa nói: Tâm núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu-ly; vậy người kia đương khi lấy chén lưu-ly úp vào hai mắt, trông-thấy núi sông thì có trông-thấy chén lưu-ly không?”

-Thưa Thế-tôn, đúng thế, người ấy đương khi lấy chén lưu-ly úp vào hai mắt, thật có thấy chén lưu-ly.

Phật bảo ông A-nan: “Nếu tâm ông núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu-ly thì trong khi trông-thấy núi sông sao không trông-thấy con mắt? Nếu trông-thấy con mắt thì con mắt hình như ngoại-cảnh, không thể liền thấy mà liền biết được. Nếu không thấy được con mắt thì sao lại nói rằng tâm hay-biết núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu-ly? Vậy nên biết rằng ông nói cái tâm hay-biết núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu-ly, thật không có lẽ nào như vậy”.

ĐOẠN V – CHẤP NHẮM MẮT THẤY TỐI LÀ THẤY BÊN TRONG THÂN

Ông A-nan bạch Phật: “Thưa Thế-tôn, nay tôi lại nghĩ như vầy: Trong thân-thể chúng-sinh này, phủ-tạng ở trong, khiếu-huyệt ở ngoài, có tạng thì tối, có khiếu thì sáng. Nay tôi trả-lời Phật rằng: Mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy bên trong. Nghĩa ấy thế nào?”

Phật bảo ông A-nan: “Đương khi ông nhắm mắt thấy tối, cái cảnh tối ấy là đối với mắt hay không đối với mắt. Nếu đối với mắt thì cái tối trước mắt, sao lại ở trong thân? Nếu thành ở trong thân thì khi ở trong phòng tối, không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn, cái gì ở trong phòng tối đó đều là tam-tiêu lục-phủ của ông hay sao? Còn như cái tối không đối với mắt, thì làm sao thành ra có thấy? Dầu tách-rời lối thấy bên ngoài mà cho rằng con mắt đối vào trong nên thấy tối, thì nhắm mắt thấy tối, gọi là thấy bên trong thân; vậy mở mắt thấy sáng sao lại không thấy cái mặt. Nếu không thấy cái mặt thì cái nghĩa con mắt đối vào trong, không thành-lập được. Còn như thấy được cái mặt thì cái tâm hay-biết ấy và con mắt đều ở ngoài hư-không, sao lại thành ở trong thân được? Nếu tâm và con mắt ở ngoài hư-không thì tất-nhiên không phải là thể-chất của ông, vì không lẽ hiện nay Như-lai thấy mặt ông cũng là thân của ông hay sao? Và như thế thì con mắt đã biết, thân ông lẽ phải không biết. Nếu ông chấp rằng thân và con mắt đều có biết thì ông phải có hai tính-biết, rồi chính một thân ông sẽ thành hai đức Phật hay sao? Vậy nên biết rằng ông nói thấy tối là thấy bên trong thân, thật không có lẽ nào như vậy”.

This entry was posted in Kinh Pháp, Phật Giáo. Bookmark the permalink.