Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Quyển 3 – 5

ĐOẠN V

THU MƯỜI TÁM GIỚI
(6 CĂN, 6 TRẦN VÀ 6 THỨC)

Chi 1. – Thu nhãn, sắc và nhãn-thức-giới.

“Lại nữa A-nan, làm sao 18 giới vốn là tính chân-như nhiệm-mầu của Như-lai-tạng?

A-nan, như ông bày-tỏ: Nhãn-căn và sắc-trần làm duyên, sinh ra nhãn-thức. Thức đó lại là nhân nhãn-căn sinh ra, lấy nhãn-căn làm giới, hay nhân sắc-trần sinh ra, lấy sắc-trần làm giới?

A-nan, nếu nhân nhãn-căn sinh ra, mà không có sắc có không, thì không thể phân-biệt, dầu cho có cái thức của ông thì đem ra dùng về việc gì? Cái thấy của ông, ngoài những sắc xanh, vàng, trắng, đỏ, thì không thể biểu-hiện được; vậy do đâu mà lập thành ra giới?

Nếu nhân sắc-trần sinh ra, thì khi chỉ có hư-không, không có sắc, lẽ ra cái thức của ông phải diệt, làm sao còn biết được là hư-không? Nếu khi sắc-tướng biến-đổi thành hư-không, ông cũng biết rằng sắc-tướng biến-đổi, mà cái thức của ông thì không biến đổi; thế thì, do đâu mà lập sắc-trần làm giới? Nếu theo sắc-trần mà biến-đổi, thì tự-nhiên sắc-trần không thành giới được. Nếu không biến-đổi, thì là thường hằng, cái thức đã do sắc-trần sinh ra, lẽ ra không thể biết hư-không ở đâu?

Nếu gồm hai thứ nhãn-căn và sắc-trần chung cùng sinh ra; vậy, như hợp lại, thì ở giữa phải ly, còn như ly ra, thì hai bên lại hợp, thể-tính xen-lộn, làm sao thành được giới?

Vậy nên biết rằng nhãn-căn sắc-trần làm duyên, sinh ra giới nhãn-thức, cả ba chỗ đều không, và ba giới nhãn-căn, sắc-trần và nhãn-thức, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 2. – Thu nhĩ, thanh và nhĩ-thức-giới.

“A-nan, lại như ông bày-tỏ : Nhĩ-căn và thanh-trần làm duyên, sinh ra nhĩ-thức. Thức đó nhân nhĩ-căn sinh ra, lấy nhĩ-căn làm giới, hay nhân thanh-trần sinh ra, lấy thanh-trần làm giới?

A-nan, nếu nhân nhĩ-căn sinh ra, mà không có hai tướng động, tĩnh hiện-tiền, thì cái biết của nhĩ-căn cũng không thành; mà đã không biết gì, thì cái biết còn không thành, huống nữa cái thức phân-biệt còn có hình-trạng gì.

Nếu nhân lỗ tai nghe thì đã không động, tĩnh, cái nghe cũng không thành; làm sao lấy hình-sắc lỗ tai đối với xúc-trần, mà gọi được là giới nhĩ-thức; và cái giới nhĩ-thức như thế, do đâu mà lập ra.

Nếu nhân thanh-trần mà sinh, thì cái nhĩ-thức nhân thanh-trần mà có, không có dính-líu gì đến cái nghe; mà đã không nghe, thì cũng không biết các tướng thanh-trần ở đâu. Lại nói nhĩ-thức do thanh-trần sinh ra, dầu cho rằng thanh-trần, nhân cái nghe mà có tướng, thì cái nghe, lẽ phải nghe được nhĩ-thức. Nếu không nghe được nhĩ-thức, thì thanh-trần không phải là giới của nhĩ-thức. Nếu nghe được, thì nhĩ-thức cũng đồng như thanh-trần, và nhĩ-thức đã bị nghe, thì lấy cái gì biết được rằng đã nghe cái thức? Còn nếu cái thức không biết, thì cũng như cỏ như cây.

Lại không lẽ thanh-trần và cái nghe xen-lộn, thành ra giới ở giữa? Giới ở giữa đã không có, thì các tướng nội-căn, ngoại-trần, do đâu mà thành-lập được.

Vậy, nên biết rằng nhĩ-căn, thanh-trần làm duyên, sinh ra giới nhĩ-thức, cả ba chỗ đều không và ba giới nhĩ-căn, thanh-trần và nhĩ-thức, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 3. – Thu tỷ, hương và tỷ-thức-giới.

“A-nan, lại như ông bày-tỏ: Tỷ-căn và hương-trần làm duyên, sinh ra tỷ-thức. Thức đó lại nhân tỷ-căn sinh ra, lấy tỷ-căn làm giới, hay nhân hương-trần sinh ra, lấy hương-trần làm giới?

A-nan, nếu nhân tỷ-căn sinh ra, thì trong tâm ông lấy cái gì làm tỷ-căn? Ông lấy cái hình-tướng mũi thịt như hai móng tay, hay lấy cái tính ngửi-biết lay-động làm tỷ-căn?

Nếu lấy cái hình-tướng mũi thịt, thì chất thịt là thân-căn và cái biết của thân-căn là cái biết cảm-xúc. Đã gọi là thân-căn thì không phải là tỷ-căn, đã gọi rằng cảm-xúc, thì đó là xúc-trần đối với thân-căn. Vậy, còn không có gì đáng gọi là tỷ-căn, do đâu mà lập thành giới?

Nếu lấy cái ngửi-biết làm tỷ-căn, thì trong tâm ông lấy cái gì làm cái có ngửi-biết? Nếu lấy lỗ mũi thịt, thì cái biết của chất thịt là xúc-trần, chứ không phải như tỷ-căn; nếu lấy cái hư-không làm cái có ngửi-biết, thì hư-không tự biết, còn xác-thịt lẽ ra không biết, như thế, thì lẽ ra hư-không là ông; thân của ông mà không có biết, thì ông A-nan hiện nay lẽ cũng không còn đâu nữa.

Nếu lấy cái hương làm cái có ngửi-biết, thì cái biết thuộc về hướng-trần, nào dính gì đến ông?

Nếu các mùi thơm, thối sinh ra do tỷ-căn của  ông, thì hai mùi thơm, thối kia không sinh ra do cây y-lan và cây chiên-đàn; hai vật đó không tới, ông tự ngửi lỗ mũi là thơm hay là thối; thối thì không phải thơm, thơm thì không phải thối; nếu cả hai mùi thơm, thối đều ngửi được cả, thì một người ông phải có hai tỷ-căn và đứng trước tôi hỏi đạo phải có hai ông A-nan, thì ông nào mới là tự-thể của ông. Còn nếu tỷ-căn là một, thì thơm, thối không hai, thối đã thành thơm, thơm đã thành thối, hai tính đó đã không có, thì lấy gì lập được thành giới?

Lại nếu nhân hương-trần mà có, thì tỷ-thức đã nhân hương-trần mà có, cũng như nhân con mắt có thấy, không thể thấy được con mắt; tỷ thức nhân hương-trần mà có, lẽ ra không biết được hương-trần. Nếu biết được hương-trần, thì không phải do hương-trần sinh ra, nếu không biết được hương-trần, thì không phải là tỷ-thức.

Hương-trần mà không ngửi biết là có, thì cái giới hương-trần không thành; tỷ-thức mà không biết hương-trần, thì cái giới của nó, không phải do hương-trần mà lập. Đã không có cái thức trung-gian, thì nội-căn, ngoại-trần cũng không thành và tất-cả những điều ngửi-biết kia rốt-ráo đều luống-dối.

Vậy, nên biết rằng tỷ-căn, hương-trần làm duyên, sinh ra tỷ-thức, cả ba chỗ đều không và ba giới tỷ-căn, hương-trần và tỷ-thức, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 4. – Thu thiệt, vị và thiệt-thức-giới.

“A-nan, lại như ông bày-tỏ: Thiệt-căn và vị-trần làm duyên, sinh ra thiệt-thức. Thức đó lại nhân thiệt-căn sinh ra, lấy thiệt-căn làm giới, hay nhân vị-trần sinh ra, lấy vị-trần làm giới?

A-nan, nếu nhân thiệt-căn sinh ra, thì như trong thế-gian, những loại mía ngọt, mơ chua, hoàng-liên đắng, muối mặn, tế tân, gừng, quế cay, đều không có vị, ông tự nếm cái lưỡi là ngọt hay là đắng. Nếu cái lưỡi là đắng, thì lấy cái gì mà nếm cái lưỡi; cái lưỡi đã không thể tự nếm được, thì lấy gì mà có hay-biết; còn nếu cái lưỡi không đắng, thì tự-nhiên vị-trần không sinh ra, làm sao mà lập được thành giới?

Nếu nhân vị-trần sinh ra; vậy thiệt-thức đã là vị rồi, thì cũng đồng như thiệt-căn, không thể tự nếm được, làm sao còn biết được là có vị hay không có vị? Lại tất-cả các vị không phải do một vật sinh ra. Các vị đã do nhiều vật sinh ra, thì cái thiệt-thức do vị-trần sinh ra, cũng phải có nhiều tự-thể. Nếu tự-thể của thiệt-thức là một và tự-thể đó thật do vị-trần sinh ra, thì các vị mặn, nhạt, chua, cay và nhiều vị khác nhau, do các thứ đó hòa-hợp cùng sinh ra, đều chỉ là một vị, lẽ ra không có phân-biệt; mà đã không có phân-biệt, thì không thể gọi là thức, làm sao còn gọi là giới thiệt-thức? Không lẽ hư-không lại sinh được cái thức của ông?

Nếu thiệt-căn, vị-trần, hòa-hợp mà sinh ra cái thức ở giữa, vốn không tự-tính, làm sao mà lập được thành giới?

Vậy, nên biết rằng thiệt-căn, vị-trần làm duyên, sinh ra thiệt-thức, cả ba chỗ đều không, và ba giới thiệt-căn, vị-trần và thiệt-thức, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 5. – Thu thân, xúc và thân-thức-giới.

“A-nan, lại như ông bày-tỏ: Thân-căn và xúc-trần làm duyên, sinh ra thân-thức. Thức đó lại là nhân thân-căn sinh ra, lấy thân-căn làm giới, hay nhân xúc-trần sinh ra, lấy xúc-trần làm giới?

A-nan, nếu nhân thân-căn sinh ra, không có cái duyên của hai cảm-xúc hợp và ly, thì thân-căn còn biết gì. Nếu nhân xúc-trần sinh ra mà không có thân-căn của ông, thì có ai không có thân-căn mà biết hợp, biết ly được.

A-nan, vật thì không biết cảm-xúc, thân-căn có biết, mới có cảm-xúc; tức nơi cảm-xúc, mà biết có thân-căn, tức nơi thân-căn mà biết có cảm-xúc; nhưng đã tức là cảm-xúc, thì không phải thân-căn, mà đã tức là thân-căn, thì không phải cảm-xúc; cả hai tướng thân-căn và xúc-trần, vốn không có xứ-sở. Nếu xúc-trần hợp một với thân-căn, thì tức là tự-thể của thân-căn rồi; còn nếu rời hẳn với thân-căn, thì thành không có gì, như các tướng hư-không.

Nội-căn, ngoại-trần đã không thành, thì làm sao lập được cái thức ở giữa; cái thức ở giữa đã không lập được, thì nội-căn, ngoại-trần, bản-tính cũng rỗng-không và cái thức của ông do đâu mà lập được thành giới.

Vậy, nên biết rằng thân-căn, xúc-trần làm duyên, sinh ra thân-thức, cả ba chỗ đều không, và ba giới thân-căn, xúc-trần và thân-thức, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên.

Chi 6. – Thu ý, pháp và ý-thức-giới.

“A-nan, lại như ông bày-tỏ: Ý-căn và pháp-trần làm duyên, sinh ra ý-thức. Thức đó lại là nhân ý-căn sinh ra, lấy ý-căn làm giới, hay nhân pháp-trần sinh ra, lấy pháp-trần làm giới?

A-nan, nếu nhân ý-căn sinh ra, thì trong ý ông, chắc phải có chỗ nghĩ-ngợi mới phát-minh được cái ý của ông; nếu không có các pháp-trần, thì ý-căn không thể sinh ra được. Rời các pháp-trần, ý-căn còn không có hình-tướng, thì đem ý-thức ra mà dùng vào việc gì?

Lại cái thức-tâm của ông với các thứ nghĩ-ngợi, các sự rõ-biết là đồng nhau hay khác nhau. Nếu đồng với ý-căn, thì tức là ý-căn rồi, làm sao lại do ý-căn sinh ra ? Nếu khác, mà không đồng với ý-căn, thì lẽ ra không còn biết gì. Nếu không biết gì, thì làm sao lại do ý-căn sinh ra; còng nếu có biết, thì làm sao lại chia ra ý-thứ và ý-căn? Chỉ hai tính đồng nhau, khác nhau còn không thành, làm sao lập được thành giới?

Nếu nhân pháp-trần sinh ra, thì các pháp trong thế-gian, không ngoài năm trần. Ông hãy xét các pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc, có tướng rõ-ràng đối với năm căn, đều không thuộc về phần thu-nạp của ý-căn. Nếu ý-thức của ông quyết-định nương nơi pháp-trần mà sinh ra, thì ông hãy xét từng pháp, từng pháp, hình-trạng thế nào. Nếu rời hẳn các tướng sắc, không, động, tĩnh, thông, bịt, hợp, ly, sinh, diệt, thì rốt-ráo không thành một pháp nào cả. Lại, sinh cũng là các pháp như sắc, như không sinh ra, diệt cũng như các pháp như sắc, như không diệt mất. Các nguyên-nhân đã không thành, thì cái thức do nó sinh ra, còn có hình-tướng gì; hình-tướng còn không có, làm sao mà lập được thành giới. Vậy, nên biết rằng ý-căn, pháp-trần làm duyên, sinh ra ý-thức, cả ba chỗ đều không, và ba giới ý-căn, pháp-trần và ý-thức, vốn không phải tính nhân-duyên, không phải tính tự-nhiên”.

ĐOẠN VI

THU BẢY ĐẠI : ĐỊA-ĐẠI, THỦY-ĐẠI, HỎA-ĐẠI, PHONG-ĐẠI, KHÔNG-ĐẠI, KIẾN-ĐẠI VÀ THỨC-ĐẠI.

Chi 1. – Xin khai-thị về tứ đại hòa-hợp.

Ông A-nan bạch Phật : “Thưa Thế-tôn, đức Như-lai thường nói về nhân duyên hòa-hợp rằng: Tất-cả các thứ biến-hóa trong thế-gian đều nhân bốn món “Đại” hòa-hợp mà phát ra. Làm sao đức Như-lai lại bác-bỏ cả hai nghĩa nhân-duyên và tự-nhiên. Nay tôi không biết nghĩa đó thế nào, xin Phật rủ lòng thương-xót chỉ-bày cho chúng-sinh nghĩa rốt-ráo của trung-đạo, không còn các đều hý-luận.”

Chi 2. – Chỉ rõ thể-tính tứ-đại không phải hòa-hợp.

Khi bấy giờ, đức Thế-tôn bảo ông A-nan rằng : “Trước đây ông nhàm-chán các pháp tiểu-thừa Thanh-Văn, Duyên-giác, phát tâm tha-thiết cầu đạo vô-thượng Bồ-đề, nên tôi lúc nầy chỉ-bày cho ông đệ-nhất-nghĩa-đế, làm sao ông lại còn đem những nhân-duyên vọng-tưởng hý-luận thế-gian mà tự ràng-buộc mình? Ông tuy nghe được nhiều pháp, nhưng cũng như người nói tên vị thuốc, mà đến khi thuốc thật ở trước mắt, thì lại không phân-biệt được. Như-lai gọi là rất đáng thương-xót. Nay ông hãy nghe cho kỹ, tôi sẽ vì ông phân-tách chỉ-bày và cũng để cho những người tu đại-thừa sau này thông-suốt được thật-tướng.”

Ông A-nan yên-lặng kính vâng thánh-chỉ của Phật.

Phật dạy : “A-nan, như ông đã nói: Bốn món “Đại” hòa-hợp phát ra các thứ biến-hóa trong thế-gian. A-nan, nếu tính các món đại kia không phải hòa-hợp, thì không thể lẫn-lộn với các đại khác, cũng như hư-không không thể hòa-hợp được với các sắc-tướng. Nếu tính của các đại là hòa-hợp, thì cũng đồng như các thứ biến-hóa, thủy chung thành nhau, sinh diệt nối nhau, sinh rồi diệt, diệt rồi sinh, sinh sinh diệt diệt, như vòng lửa quay tròn chưa hề dừng nghỉ. A-nan, như nước thành giá, giá lại thành nước.

Chi 3. – Thu địa-đại.

Ông hãy xét cái tính của địa-đại, to thì làm đất liền, nhỏ thì làm vi-trần, cho đến lân-hư-trần, do chẻ chất cực-vi, là sắc-tướng nhỏ tột, ra 7 phần mà thành. Nếu chẻ lân-hư-trần nữa, thì thật là tính hư-không.

A-nan, nếu cái lân-hư-trần đó, chẻ ra thành được hư-không, thì biết hư-không cũng sinh ra được sắc-tướng. Nay ông hỏi rằng do hòa-hợp mà sinh ra các tướng biến-hóa trong thế-gian, thì ông hãy xét một cái lân-hư-trần, phải dùng bao nhiêu hư-không hợp lại mới có, không thể lân-hư-trần hợp lại thành lân-hư-trần. Lại lân-hư-trần đã chẻ được thành hư-không, thì phải dùng bao nhiêu sắc-tướng hợp lại, mới thành cả hư-không. Nhưng nếu sắc-tướng hợp lại, thì hợp sắc-tướng lại, không thể thành được hư-không; còn nếu hư-không hợp lại, thì hợp hư-không lại, không thể thành được sắc-tướng; sắc-tướng còn có thể chẻ được, chứ hư-không thì làm sao mà hợp được?

Ông vốn không biết trong Như-lai-tạng, tính sắc là chân-không, tính không là chân-sắc, bản-nhiên thanh-tịnh, cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh, đáp-ứng với lượng hay-biết, theo nghiệp mà phát-hiện; thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên và tính tự-nhiên, đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật.

Chi 4. – Thu hỏa-đại.

“A-nan, hỏa-đại không có tự-thể, gửi nơi các duyên mà phát-hiện. Ông hãy xem các nhà, chưa ăn ở trong thành, khi muốn nhóm bếp, thì tay cầm kính hiển-vi, đưa trước ánh sáng mặt trời mà lấy lửa.

A-nan, phàm gọi là hòa-hợp, thì như tôi cùng ông và 1.250 vị tỷ-khưu, hiện nay, hợp-thành một chúng; tuy chúng chỉ có một, song gạn-xét về căn-bản, thì mỗi người đều có thân, đều có danh-tự họ-hàng của mình, như ông Xá-lỵ-phất, thì thuộc dòng Bà-la-môn, ông Ưu-lâu-tần-loa, thì thuộc dòng Ca-diếp-ba, cho đến ông A-nan, thì thuộc dòng họ Cù-đàm.

A-nan, nếu lửa đó nhân hòa-hợp mà có, thi khi người kia cầm kính lấy lửa nơi ánh sáng mặt trời, lửa đó từ trong kính mà ra, do bùi-nhùi mà có hay từ mặt trời mà đến?

A-nan, nếu từ mặt trời mà đến, thì lửa ấy đã đốt được bùi-nhùi trong tay của ông, những rừng cây mà ánh sáng mặt trời đi qua, lẽ ra đều bị đốt cả. Nếu từ trong kính mà ra, thì lửa ấy đã có thể từ trong kính ra đốt cháy bùi-nhùi, làm sao cái kính lại không chảy; cho đến cả cái tay ông cầm kính còn không thấy nóng, thì làm sao kính lại chảy được. Nếu do bùi-nhùi sinh ra, thì cần gì ánh sáng mặt trời và kính tiếp-đối với nhau, rồi sau lửa mới sinh ra. Ông hãy xét cho kỹ, kính do tay cầm, mặt trời thì đi trên trời, còn bùi-nhùi thì từ đất sinh ra, vậy lửa từ phương nào đi đến chỗ đó. Mặt trời và kính xa nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ lửa kia, không do đâu mà tự có.

Ông còn không biết trong Như-lai-tạng, tính hỏa là chân-không, tính không là chân-hỏa, bản-nhiên thanh-tịnh cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh, đáp-ứng với lượng hay-biết.

A-nan, ông nên biết rằng người đời cầm kính một chỗ, thì một chỗ có lửa sinh ra, khắp pháp-giới đều cầm kính, thì khắp pháp-giới bốc lửa. Lửa bốc khắp thế-gian, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát-hiện. Thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên và tính tự-nhiên, đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật.

Chi 5. – Thu thủy-đại.

“A-nan, tính nước không nhất-định, khi chảy, khi đứng không chừng. Như trong thành Thất-la-phiệt, các ông tiên Ca-tỳ-la, Chước-ca-la và các nhà đại-huyễn-thuật Bát-đầu-ma, Ha-tát-đa, vân vân… muốn cầu tinh Thái-âm để hòa với các thuốc huyễn-thuật, thì các ông ấy, trong lúc sáng trăng trong, tay cầm hạt châu Phương-chư, hứng nước trong ánh mặt trăng. Vậy, nước ấy từ trong hạt châu mà ra, do hư-không mà có hay từ mặt trăng mà đến?

A-nan, nếu từ mặt trăng mà đến, thì ở phương xa còn có thể làm cho hạt châu chảy ra nước, những rừng cây ánh sáng mặt trăng đi qua, lẽ ra đều phải phun nước; mà nếu phun nước, thì sao lại phải đợi có hạt châu Phương-như mới chảy nước được? Còn nếu không phun nước, thì rõ-ràng nước đó, không phải từ mặt trăng mà xuống. Nếu từ hạt châu mà ra, thì trong hạt châu ấy, thường phải chảy nước, sao còn phải đợi ánh sáng mặt trăng trong lúc nửa đêm? Nếu do hư-không mà sinh, thì hư-không không bờ-bến, nước cũng không giới-hạn; vậy từ cõi người đến cõi trời, lẽ ra đều phải chìm-ngập cả, làm sao lại còn có thủy, lục, không, hành? Ông hãy xét cho kỹ, mặt trăng từ trên trời đi qua, hạt châu do tay cầm, còn cái mâm hứng nước thì do người sắp đặt; vậy nước kia từ phương nào mà chảy đến đó. Mặt trăng và hạt châu xa nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ nước kia, không do đâu mà tự có.

Ông còn biết trong Như-lai-tạng, tính thủy là chân-không, tính không là chân-thủy, bản-nhiên thanh-tịnh, cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh, đáp-ứng với lượng hay-biết. Một chỗ cầm hạt châu, thì một chỗ nước chảy ra, khắp pháp-giới cầm hạt châu, thì đầy pháp-giới nước sinh ra. Thủy-đại sinh khắp thế-gian, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát-hiện; thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên và tính tự-nhiên, đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật.

Chi 6. – Thu phong-đại.

“A-nan, phong-đại không có tự-thể, khi động, khi tĩnh không chừng. Ông thường sửa áo, vào trong đại-chúng, gấu áo Tăng-già-lê động đến người bên cạnh, thì có chút gió phảy qua mặt người kia. Gió đó lại là, do gấu áo ca-sa mà ra, do hư-không mà phát-khởi hay do mặt người kia mà sinh?

A-nan, nếu gió đó phát ra, do gấu áo ca-sa, thì ông đã mặc cả gió, lẽ ra cái áo phải bay tung ra, rời khỏi thân-thể của ông. Nay tôi thuyết-pháp, rũ áo ở trong Hội nầy, ông hãy xem cái áo tôi, gió ở chỗ nào? Không lẽ trong áo lại có chỗ chứa gió.

Nếu gió đó do hư-không sinh ra, thì khi cái áo ông không động, vì sao lại không phải gió? Và tính hư-không thường còn, thì gió lại phải thường sinh ra; khi không có gió, thì hư-không phải diệt mất. Gió diệt, thì có thể thấy được, còn hư-không diệt, thì hình-trạng thế nào? Lại nếu có sinh diệt, thì không gọi là hư-không và đã gọi là hư-không, thì làm sao lại phát ra gió được?

Nếu gió đó sinh ra do cái mặt người bị phảy, thì đã do mặt người đó sinh ra, lẽ ra phải phảy lại ông, sao tự ông sửa áo mà lại phảy ngược lại người kia?

Ông hãy xét cho kỹ: Sửa áo là do nơi ông, cái mặt thì thuộc về người kia, hư-không thì vắng-lặng, không thể lay-động, vậy gió từ phương nào giong-ruổi đến đó. Tính gió và tính hư-không cách xa nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ gió kia, không do đâu mà tự có.

Ông thật không biết trong Như-lai-tạng, tính phong là tính chân-không, tính không là chân-phong, bản-nhiên thanh-tịnh cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh, đáp-ứng với lượng hay-biết. A-nan, như một mình ông hơi động cái áo, thì có chút gió phát ra; khắp pháp-giới đều phảy, thì khắp cõi nước sinh ra phong-đại. Phong-đại đầy-nhẩy thế-gian, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát-hiện. Thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên và tính tự-nhiên, đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật.

Chi 7. – Thu không-đại.

“A-nan, hư-không không có hình, nhân sắc-tướng mà tỏ-bày ra. Như trong thành Thất-la-phiệt, chỗ cách xa sông, những người dòng Sát-lỵ, dòng Bà-la-môn, dòng Tỳ-xá, dòng Thủ-đà hay dòng Phả-la-đọa, dòng Chiên-đà-la, vân vân… khi dựng nhà mới, thì đào giếng mà lấy nước, đào đất ra một thước, thì trong đó có một thước hư-không, như vậy cho đến đào đất ra một trượng, thì trong đó lại được một trượng hư-không, hư-không nông hay sâu, tùy đào đất ra nhiều hay ít. Hư-không đó là nhân đất mà ra, nhân đào mà có hay không nhân gì mà tự sinh?

A-nan, nếu hư-không đó không nhân gì mà tự sinh, thì khi trước khi chưa đào đất, sao nơi đó lại không trống-rỗng, mà chỉ thấy đất liền, hẳn không thông-suốt. Nếu nhân đất mà ra, thì khi đất ra, phải thấy hư-không vào; nếu đất ra trước, mà không thấy hư-không vào, thì làm sao hư-không lại nhân đất mà ra. Còn nếu không ra, không vào, thì hư-không với đất vốn không khác nhau; không khác tức là đồng, thì khi đất ra, sao hư-không lại không ra. Nếu nhân đào mà ra, thì phải đào ra hư-không, chứ không đào ra đất; nếu không nhân đào mà ra, thì tự đào ra đất, làm sao lại thấy hư-không?

Ông hãy xét cho kỹ, nhận-rõ xét-chín: Đào, thì do tay người, theo phương hướng mà vận-chuyển, đất, thì từ nơi đất liền mà dời đi, còn hư-không, như vậy, thì nhân đâu mà ra. Đào là thật sự, hư-không là rỗng trống, không có tác-dụng gì với nhau, không phải hòa, không phải hợp, không lẽ hư-không không do đâu mà tự ra. Nếu cái hư-không đó, bản-tính viên-mãn cùng khắp, không có lay-động, thì nên biết hiện-tiền hư-không và bốn thứ địa, thủy, hỏa, phong, đều gọi là năm đại, tính thật viên-dung, vốn là tính Như-lai-tạng, không sinh, không diệt.

A-nan, tâm ông mê-muội, không ngộ được bốn đại vốn là tính Như-lai-tạng, ông hãy xét cái hư-không là ra, là vào hay không ra, không vào. Ông toàn không biết trong Như-lai-tạng, tính giác là chân-không, tính không là chân-giác, bản-nhiên thanh-tịnh, cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh, đáp-ứng với lượng hay-biết. A-nan, như một giếng trống không, thì hư-không sinh trong một giếng; hư-không thập phương, thì cũng như vậy. Không-đại cùng khắp mười phương, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát-hiện; thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên và tính tự-nhiên, đều là những so-đo phân-biệt của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật.

Chi 8. – Thu kiến-đại.

“A-nan, kiến-đại có giác-quan mà không phân-biệt, nhân các thứ sắc, không mà có. Như hiện nay ông ở trong rừng Kỳ-đà, sớm mai thì sáng, ban đêm thì tối, đến lúc nửa đêm, trăng tròn thì sáng, vắng trăng thì tối; những tướng sáng, tối ấy do cái thấy phân-tách. Cái thấy đó, lại là đồng một thể với các tướng sáng, tối và cả hư-không, hay không đồng một thể. Hoặc cũng đồng, cũng không phải đồng, hoặc cũng khác, cũng không phải khác?

A-nan, nếu cái thấy đó, cùng với sáng, tối và hư-không vốn là một thể, thì cái sáng, cái tối tiêu-diệt lẫn nhau, khi tối, thì không sáng, khi sáng thì không tối; nếu như cái thấy cùng một thể với cái tối, thì khi sáng, cái thấy phải tiêu mất; nếu cùng một thể với cái sáng, thì khi tối, cái thấy phải diệt rồi, mà đã diệt, thì làm sao còn thấy được sáng, thấy được tối. Còn như sáng và tối khác nhau, còn cái thấy thì không sinh không diệt, thì làm sao lại thành đồng một thể được?

Nếu cái thấy đó không phải đồng một thể với cái tối và cái sáng, thì ngoài cái sáng, cái tối và hư-không ra, ông hãy phân-tách cái thấy thành hình-tướng gì; rời cái sáng, cái tối và hư-không, cái thấy đó cũng đồng như lông rùa sừng thỏ; nếu tách hẳn ba thứ sáng, tối và hư-không, thì do đâu mà thành-lập được cái thấy?

Sáng và tối trái-ngược lẫn nhau, làm sao hoặc cũng là đồng; rời ba thứ sáng, tối và hư-không, cái thấy vốn không còn gì, làm sao hoặc cũng là khác. Bên hư-không, bên cái thấy, vốn không có bờ-cõi, làm sao lại không phải đồng; thấy cái tối, thấy cái sáng, tính không dời-đổi, làm sao lại không phải khác?

Ông hãy xét cho kỹ, suy-xét chín-chắn, nhận cho cùng, xét cho rõ, sáng là do mặt trời, tối là do đêm không trăng, thông-suốt thuộc về hư-không, ngăn-bịt thuộc về đất liền còn cái thấy, như vậy nhân đâu mà ra. Cái thấy có giác-quan, hư-không thì không hay-biết, không phải hòa, không phải hợp; không lẽ cái thấy, không do đâu mà tự phát ra. Còn như tất-cả các sự thấy, nghe, hay, biết, bản-tính viên-mãn cùng khắp, vốn không lay-động, thì nên biết kiến-đại cùng với hư-không không bờ-bến, không lay-động và bốn món đại: địa, thủy, hỏa, phong, có lay-động, đều gọi là sáu đại, tính thật là viên-dung, vốn là tính Như-lai-tạng, không sinh, không diệt.

A-nan, tính ông chìm-đắm, không ngộ được những sự thấy, nghe, hay, biết của ông vốn là tính Như-lai-tạng; ông hãy xét những thấy, nghe, hay, biết, đó là sinh hay diệt, là đồng hay là khác, là không phải sinh, không phải diệt, hay không phải đồng, không phải khác. Ông chưa từng biết trong Như-lai-tạng, cái thấy nơi tâm-tính là cái tính-minh của bản-giác; cái tính-minh của bản-giác biểu-lộ ra nơi cái thấy, bản-nhiên thanh-tịnh cùng khắp pháp-giới, theo tâm chúng-sinh đáp-ứng với lượng hay-biết.

Như nơi nhãn-căn, cái thấy cùng khắp pháp-giới, thì cái biết nghe, biết ngửi, biết nếm, biết xúc, biết các pháp, công-năng nhiệm-mầu sáng-suốt cũng cùng khắp pháp-giới, đầy-đủ thập phương hư-không, đâu có chỗ ở, theo nghiệp mà phát-hiện. Thế-gian không biết, lầm là nhân-duyên và tính tự-nhiên, đều là những phân-biệt so-đo của ý-thức, chỉ có lời nói, toàn không có nghĩa chân-thật.

This entry was posted in Kinh Pháp, Phật Giáo. Bookmark the permalink.