Năm Pháp Có Thể Đưa Đến Khổ Đau Hay Hạnh Phúc

5. Uống các loại rượu hay xa lánh uống các loại rượu:

– Đây là pháp thứ năm, còn gọi là pháp uống các loại rượi nơi phóng dật hay tránh xa uống các loại rượư nơi phóng dật. Ở đây, Bản thân của rượu vốn không tội ác, vì vậy giới uống rượu trong năm giới nó thuộc về Giá giới. Nhưng vì sau khi uống rượu vào, tất cả chúng ta không ai có thể làm chủ được chính mình, nên có khả năng tạo thành tội ác lớn. Do đó đức Phật căn cứ vào những hiện tượng và những hậu quả đã xảy ra do chất men rượu làm cho hệ thống thần kinh hưng phấn, mật to xung động, làm mờ mắt, không còn tự mình khống chế lấy mình được, có thể mắng người, đánh người, giết người, hiếp dâm, phóng hoả, làm mất anh ninh trật tự chòm xóm láng giềng và, bất cứ hành động nào cũng có thể làm được hết, mà Ngài đã chế giới uống rượu.

– Cũng như bốn giới trên, giới uống các loại rượu cũng phải hội đủ ba điều kiện[25] sau đây mới thành tội khả hối:

1/ Là rượu.

2/ Không vì bệnh nặng.

3/ Uống vào khỏi cổ.

– Đó là ba điều kiện đủ để hoàn thành tội danh của giới uống các loại rượu khả hối này. Cho dù tội này không phải là Tánh tội bất khả hối mà là giá tội khả hối, nhưng vì tính liên đới sau khi hoàn thành tội danh thì theo sau đó những tội khác xuất hiện như cướp của, giết người, cưỡng dâm, và tất cả những tội khác có thể xảy ra, mà bản thân người đó không tự chủ được. Do đó việc tạo ra oán đối đáng sợ theo sau, và cứ như vậy oán đối theo nhau như hình với bóng quấy nhiễu trả vay nhau trong hiện tại, và tạo ra khổ đau suốt nơi ba nẻo ác địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh trong luân hồi. Dưới đây, chúng tôi sẽ trích dẫn hai mẫu chuyện về việc uống rượu say, và đưa đến việc phạm những trọng tội khác:

– “Vào thời kỳ đức Phật Ca-diếp-ba[26] xa xưa, có một người thọ trì năm pháp, luôn luôn giữ giới thanh tịnh. Một hôm, từ bên ngoài trở về nhà, vì quá khát nước, nên thấy trên bàn có một chén rượu màu trong như nước, vội vàng uống một hơi vào bụng. Nào ngờ sau đó rượu ngấm, tính men rượu kích thích phát tác, khiến ông ta phạm giới một cách liên tục. Thấy gà hàng xóm chạy vào nhà, ông ta bèn bắt trộm làm thịt, vợ người hàng xóm mất gà sang tìm, thấy vợ người hàng xóm đẹp, ông liền cưỡng dâm. Sau việc này, bị bắt đến công đường, ông ta chối cãi không nhận tội. Chỉ vì uống nhầm một chén rượu mà ông ta liên tục phạm đủ năm pháp cấm giới. Tội ác của rượu rất lớn như vậy.”[27]

– “Vào thời đức Phật còn tại thế, có Tôn giả Sa-già-đà[28], thần lực của ngài có thể hàng phục được độc long. Sau khi khất thực ngài uống rượu do Phạm chí cúng dường. Uống xong ngài đi về bị say ói mửa, té ngã dọc đường. Đức Phật nói với A-nan: ‘Sa-già-đà này là người si, trước kia có thể hàng phục được độc long lớn, bây giờ, thì không thể hàng phục được con rồng nhỏ!’”[29]

– Qua hai mẫu chuyện này cho chúng ta thấy, cái hại của việc uống rượu là như thế nào rồi. Chúng làm mờ đi trí não của con người, không còn biết gì nữa một khi đã say, và cũng vì cái nhân gây ra tai hại đáng sợ ngay trong hiện tại, và trong tương lai sau khi chết sẽ đoạ vào ba đường ác. Theo Tứ phần luật thì người uống rượu có mười điều mất mát:

1-   Nhan sắc xấu xí.

2-   Kém sức khỏe.

3-   Con mắt không sáng.

4-   Hiện tướng hung dữ.

5-   Phá hỏng sự sống của gia nghiệp.

6-   Đưa đến bệnh hoạn.

7-   Thích đấu tranh kiện tụng.

8-   Không ai khen, tiếng xấu truyền khắp.

9- Trí tuệ giảm thiểu.

10- Thân hoại mạng chung đọa vào ba đường ác.

– Đó là mười điều mất mát của chúng ta khi uống rượu say ngay trong hiện tại. Đó là cái hậu quả không thể tránh được của người uống rượu: nhân cách không còn, trí tuệ biến mất, tác hại đến sức khẻo, tạo ra các thứ tội mà đáng ra nếu chúng ta không uống rượu vào thì sẽ không xảy ra! Từ đây tác động hỗ tương kéo rộng ra chung quanh mà gần nhất là những người thân trong gia đình và rộng hơn là xã hội.

– Cũng giống như bốn giới trên: có thể đưa đến chết người, có thể phá hoại hạnh phúc mọi gia đình, có thể làm bất ổn một xã hội và cuối cùng mang đến gánh nặng khổ đau cho mọi người trong xã hội. Do đó vấn đề chúng ta sống có hạnh phúc hay không có hạnh phúc ngay trong hiện tại hay trong tương lai, luôn tùy thuộc vào hành động của chúng ta. Ở đây chúng cũng như pháp thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư trên mặt tác dụng hậu quả, nhưng trên mặt hiện tượng thì chúng khác nhau. Trong pháp này nếu người nào tránh xa uống các loại rượu thì theo tôn giả Mục-kiền-liên, người ấy là vị Ưu-bà-tắc đạt được học xứ thứ năm trong năm học xứ trên.

Tóm lại, qua năm pháp trên: Thứ nhất cho chúng ta một cái nhìn về nhân quả, theo đó nếu người thiện nam kẻ tín nữ nào phạm vào, có nghĩa là chúng ta giết hại sinh mạng con người cho đến uống các thứ rượu, thì hiện tại sẽ bị khổ đau vì tù tội, và oán đối trả vay theo sau, khiến cuộc sống trở nên bất an, xã hội trở thành bất ổn, và sau khi thân hoại mạng chung sẽ đoạ vào ba đường khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh oán đối theo mãi. Còn nếu lánh xa giết hại sinh mạng người cho đến xa lìa uống các thứ rượu, thì chắc chắn hiện tại sẽ hạnh phúc tự do, cuộc sống trở nên an lạc, xã hội trở thành cực lạc, và sau khi thân hoại mạng chung sẽ sinh về cõi trời. Đó là một thứ nhân quả tất yếu không thể không xảy ra. Thứ hai ngoài giới thứ nhất sát hại sinh mạng ra, bốn giới sau giới nào cũng có khả năng sau khi hoàn thành việc vi phạm chính giới có thể đưa đến giết người, và những tội danh nặng nhẹ khác nhau có sau đó. Thứ ba trong năm giới, giới nào khi hoàn thành nghiệp nhân của nó cũng bắt đầu từ tâm ý tham lam, sân hận, ngu si phát động, và kéo theo đó thân và khẩu hành động theo, và tuỳ thuộc vào kết quả đã thực hiện xong, tội danh bắt dầu hiện hữu, sau đó sẽ bắt đầu nhận lãnh nghiệp quả ngay trong hiện tại, hay trong tương lai, thì chúng còn tuỳ thuộc vào duyên đủ hay chưa đủ của chúng. Thứ tư từ những hiện tượng duyên đủ trên đủ để phát động những liên hệ duyên khởi tiếp sau đó, và cứ như thế trái đất vẫn quay, mặt trời vẫn chiếu sáng, các hành tinh vẫn hoạt động bình thường, theo sự sinh diệt phải có của chính chúng. Con người cũng không vượt khỏi qui luật này, và như vậy họ cũng phải sinh diệt theo qui luật thành, trụ, hoại, không, trong chu trình biến dịch sinh tử. Trong chu trình biến dịch sinh tử này, chúng luôn mang theo những chất liệu đủ đề hoàn thành biến dịch của sinh và tử, đó chính là những nghiệp nhân của nghiệp quả trước đó hình thành những chuỗi liên hệ khác trong chính nó, và như vậy khổ đau hay hạnh phúc cũng tuỳ thuộc vào những chất liệu nghiệp nhân mà chúng ta đã tạo ra trong quan hệ y báo và chánh báo.

Đại Lãn (Thích Đức Thắng) – Theo Phật Việt

http://www.daophatngaynay.com


 [1] A-tì-đạt-ma pháp uẩn túc luận (Abhidharma-dharmaskandha-pāda-śāstra), Tôn giả Đại Mục-kiền liên tạo, Huyền Trang dịch, T26n1537 [CD Đại tạng kinh điện tử. (V.26-29) Tỳ-đàm bộ,  毗昙  部, kinh 1537, phẩm học xứ, q.1.] Truyền thuyết Hữu bộ nói, do Đại Mục-kiền-liên thuyết; nhưng Xưng Hữu (Yaśomitra) và truyền thuyết Tây tạng nói là do Xá-lợi-phất.

[2] Cf. Pali, Pañcaverabhaya-sutta, S.ii. 68ff.

[3] Thệ-đa,  逝多; còn gọi là Kỳ-thọ lâm  耆树林, Sancskrit : Jetavanaṃ, 

[4] Thất-la-phiệt,  室羅筏, còn gọi là Xá-bà-đề  舍婆提,va thưòng gọi là Xá-vệ; Sancskrit: Śrāvastī. 

[5] Cf. Câu-xá luận quyển 15, T29n1558_p0081a06, «Các nghiệp bất thiện được gọi là phi phước; vì dẫn đến quả báo không mong muốn, gây tổn hại hữu tình.» 

[6] Hán: ẩm vị chư tửu phóng đạt xứ  飲味諸酒放逸處. Cf. Pali: surāmerayamajjapamādaṭṭhānā.

[7] Thiên Trung,  天中 chỉ cho cõi trời. Cf. Pali: saggaṃ sugatino yanti.

[8] Tánh giới,  性戒;Giới này lập ra căn cứ trên bản chất đạo đức, còn gọi là Tánh tội giới hay tánh trọng giới, hoặc chủ giới. Trong năm giới thì bốn giới đầu thuộc về tánh giới, tức là dùng bốn giới này để ngăn cấm tội của tánh phát sinh, vì sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối,  là hành vi tội ác thuộc về bản chất. Dù Phật có ra đời hay không ra đời, có chế giới hay không chế giới, bất luận là tại gia hay xuất gia, hễ phạm vào nó, thì trong hiện tại cũng như vị lai chắc chắn phải nhận lãnh quả báo xấu dữ. 

[9] Giá giới,  这戒; Giới này lập ra, căn cứ trên quy ước và quan hệ xã hội, để ngăn ngừa những hành vi phạm tội của thân và khẩu, còn gọi là tòng phạm. Giới này đức Phật căn cứ trên tướng phạm của khẩu thân mà chế giới, như giới uống rượu thứ năm, nó thuộc về giá giới.

[10] Ngũ đại thí,  五大施,nếu trì năm giới này triệt để thì không những “Chỉ ác,  止恶” mà còn “Hành thiện,  行善” Không những không sát sinh mà còn phóng sinh hộ sinh, không trộm cướp mà còn bố thí, … và giới còn lại cũng như vậy.

[11] Khai-giá-trì-phạm,  开这持犯;Đây là bốn nguyên tắc mà một người đã lãnh thọ giới pháp của Phật rồi thì phải nắm vững biết rõ  những giới mà mình đã thọ của hai hàng xuất gia và tại gia. Biết rõ những điều gì đức Phật ngăn cấm (Giá, 这 ) trong cuộc sống như: trong giới sát hại sinh mạng, thì khi mình đã lãnh thọ rồi thì cương quyết phải giữ gìn (Trì, 持) không cho phạm vào điều đó. Và cũng trong giới này, có những trường hợp ngoại lệ, có thể mở ra cho phép (Khai, 开) lỡ có phạm cũng không mắc tội. Ở đây trường hợp những kẻ si cuồng, loạn tân, thống não, bức bách, thì dù có phạm cũng không mắc tội. Đó là trường hợp phạm mà không mắc tội, nhưng trường hợp phạm (phạm, 犯) mà mắc tội thì chúng cũng không phải chỉ có một tội là trọng thôi, mà nó có thể thuộc vào những tội nhẹ khác, nếu như nó chưa hội đủ các duyên thành tội của giới này. Đó là bốn nguyên tắc một người thọ giới phải nắm vững và biết một cách rõ ràng.

[12] Giữ một giới, gọi là nhất phần ưu-bà-tắc (di); hai giới gọi là hai phần. Hữu bộ khong chấp nhận giới khuyết chi này. Cf. Câu-xá luận 15, T29n1558_p0076a14.

[13] Nam Sơn Hành Sự Sao,  南山行事钞 của ngài Đạo Tuyên.

[14] Hán: Thị hữu cố bỉ hữu, thị sinh cố bỉ sinh; thị không cố bỉ không, thị diệt cố bỉ diệt,  是有故彼有,  是生  故彼生;是空故彼空,是戚故彼戚.

[15] Ưu-bà-tắc,  優婆塞; còngọi là thanh tín sĩ,  清信士, Skt: Upāsaka, là người nam ở tại gia.

[16] Nam Sơn hành sự sao,  南山行事钞 của ngài Đạo Tuyên.

[17] A-na-hàm,  阿那含; Skt: Anāgāmin, là quả vị thứ ba trong tứ quả Sa-môn

[18] Nam sơn hành sự sao,  南山行事钞 của ngài Đạo Tuyên.

[19] Ưu-bà-tắc ngũ giới tướng kinh,  优婆塞五戒相经。

[20] Giới luật học cương yếu ,戒律学纲要 Thánh Nghiêm, bản dịch của: Tuệ Đăng, trang 118.

[21] Giới luật học cương yếu,  戒律学纲要Thánh Nghiêm, bản dịch của: Tuệ Đăng , trang 118.

[22] Tự mình chưa chứng Thánh quả, Thánh pháp, mà tự nói  đã chứng Thánh quả, thánh pháp, cho đến chưa thật đắc tứ thiền định mà nói đã đắc; thật chưa thấy Thiên đến, long đến, thần đến, quỷ đến  mà nói đã đến chỗ mình.

[23] Nam sơn hành sự sao,  南山行事钞 của ngài Đạo Tuyên.

[24] Một, thật không phải tịnh hạnh mà tự xưng là tịnh hạnh. Hai, vì miệng và bụng nên không chơn thật, chẳng phải mình mà ở trong chúng cố ý nói lời vọng ngữ, tự xưng rằng đạt được pháp thượng nhơn.

[25] Nam sơn hành sự sao,   南山行事钞của ngài Đạo Tuyên.

[26] Ca-diếp-ba Phật,  迦葉  波佛, Sancskrit: Kāśyapa Buddha,  là đức Phật thứ sáu trong bảy đức Phật quá khứ, là thầy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

[27] Giới luật học cương yếu  戒律学纲要, Thánh Nghiêm, bản dịch Tuệ Đăng, trg: 128.

[28] Sa-già-đà,  沙伽陀,Sancskrit: Svāgata; Pāli: Sāgata.

[29] Tứ phần luật,  四分律 q.16, giới 51, Đơn Đề.

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.