Từ bi và tinh thần bất bạo động theo truyền thống Phật giáo Đại thừa

Từ xưa đến nay, thế giới liên tục xảy ra bạo động chiến tranh, khủng bố, kỳ thị chủng tộc, bạo động giữa các tôn giáo, thì vấn đề kiến tạo nền hòa bình cho thế giới rất quan trọng.

Nhưng vẫn chưa tìm ra một phương pháp thỏa đáng, trừ phi những quốc gia trên toàn cầu, cần phải thay đổi đường lối chính trị, văn hóa áp dụng tinh thần bất bạo động vào đời sống xã hội.

Tất cả tôn giáo đều có những quan điểm định hướng cho lý tưởng khác nhau, mục đích đều hướng dẫn đạo đức con người hoàn thiện và xây dựng xã hội tốt đẹp, yêu cầu tất yếu mỗi tôn giáo cần phải phá vỡ sự mâu thuẫn, xung đột xảy ra cùng nhau định hướng chung mục đích quan tâm đến hòa bình.

Đạo Phật được xem là tôn giáo bất bạo động đóng góp rất nhiều cho nền hòa bình thế giới, đặc biệt là Phật giáo Đại thừa

Phật giáo Đại thừa phát triển và ảnh hưởng rộng rãi vào những quốc gia Châu Á như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam…trong suốt hàng ngàn năm qua, dùng lý tưởng từ bi và trí tuệ, thiết lập hệ thống giá trị đạo đức nhân bản cho con người, tránh xa những bạo động, đặc biệt truyền thống ăn chay.

Phật giáo Đại thừa luôn nhấn mạnh, phổ biến lòng từ bi đối với chúng sinh được thể hiện trong giới luật (vinaya)

I. Giới xuất gia

1. Tỳ kheo 250 giới [1]

2. Tỳ kheo ni 341 giới [2]

3. Sa di, Sa di ni 10 giới [3]

II. Giới tại gia

1. Ưu bà tắc, Ưu bà di: 5 giới [4]

2. Thập thiện giới [5]

Giới thứ nhất cấm sát sinh trong các loại giới, và giới thứ ba trong Tỳ kheo và Tỳ kheo ni giới. Và Đại thừa Bồ tát giới trong Kinh phạm võng gồm;

10 giới trọng, [6]

và 48 giới khinh [7]

Mục đích Phật chế giới là để ngăn chặn trực tiếp vấn đề giết hại sinh mạng, còn những giới khác để ngăn ngừa các điều ác từ thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp không cho phát sinh. Nếu Tỳ kheo hoặc Tỳ kheo ni vi phạm Ba-la-di (pārājikā) trục xuất khỏi Tăng đoàn, nếu phạm Ba-dật-đề thì được sám hối.

Trong 10 giới trọng của Bồ tát giới gồm có; giới sát sinh, giới trộm cướp, giới dâm dục, giới vọng ngữ, giới bán rượu giới nói lỗi tứ chúng, giới khen mình chê người, giới xan tham, giới cố giận hờn, giới phỉ báng Tam bảo, được phân chia theo ba nghiệp như sau:

Thân nghiệp: giới sát sinh, giới trộm cướp, giới dâm dục và giới bán rượu

Khẩu nghiệp: giới vọng ngữ, giới nói lỗi tứ chúng, giới khen mình chê người,

Giới phỉ báng Tam bảo

Ý nghiệp: giới xan tham, giới cố giận hờn

Chia theo loại phiền não:

Tham: giới trộm cướp, giới dâm dục, giới xan tham

Sân: giới sát sinh, giới nói lỗi tứ chúng, giới giận hờn

Si: giới phỉ báng Tam bảo, giới bán rượu và giới vọng ngữ [8]

Giới không sát sinh [9] rất quan trọng trong tất cả truyền thống Phật giáo, mục đích ngăn chặn trực tiếp vấn đề giết hại sinh mạng và khuyến hóa mọi người tránh xa bạo động chiến tranh gây đau khổ cho nhân loại. Chẳng những đức Phật cấm không được sát bất kỳ hình thức nào, Bồ-tát còn phải vâng giữ các khinh giới, như không cất chứa vũ khí, không buôn bán những khí cụ sát sanh, hay các loại vũ khí giết người, cho đến không đi sứ làm môi giới khiến cho chiến tranh giữa các quốc gia nổ ra. [10]

Những giới khinh nhằm ngăn ngừa những bất thiện pháp khỏi phát sinh, ngăn ngừa không cho phạm trọng tội Ba-la-di, theo quan điểm của Phật giáo thì những tội ác xuất phát từ ba độc tố trong tâm thức mỗi người, đó là tham, sân và si. Vì thế Phật giáo Đại thừa luôn nhấn mạnh thực hành lý tưởng từ bi và trí tuệ của Bồ-tát để chuyển hóa tâm thức, từ bi hóa giải tâm sân hận, trí tuệ tiêu diệt tâm tham và si.[11]

Lòng từ bi của Bồ-tát là linh dược để chuyển hóa khổ đau của tha nhân, tinh thần bất bạo động của Phật giáo dựa trên nguyên tắc hoạt động đạo đức của con người về hành vi tốt xấu, đúng và sai. Giới luật là quy tắc đạo đức cho Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, vì thế khái niệm bất bạo động và từ bi trong Phật giáo được sánh với giới luật của các trường phái khác nhau của Phật giáo, đặc biệt là Bồ-tát-giới. [12]

Phật giáo Đại thừa toàn bộ với các giáo lý dựa vào lòng từ bi là yêu cầu đầu tiên, vì lòng từ bi ngăn chặn hoặc kiêng cữ hoàn toàn vấn đề giết hại chúng sinh

Người Phật tử giết hại sinh vật vi phạm nguyên tắc đạo đức, tinh thần bất bạo động (ahiṃsā) và làm trái ngược lời Phật dạy.

Vì để tránh giết hại sinh vật, những người Phật tử theo truyền thống Đại thừa thực hành theo văn hóa ăn chay được ảnh hưởng rộng rãi vào những đất nước Phật giáo Đại thừa ở Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, được nhiều người hưởng ứng thực hành theo Kinh điển và giới luật của Đại thừa, vấn đề này được diễn tả trong kinh Thủ-lăng-nghiêm (首楞嚴經) nói rằng; “nếu tâm tham không tiêu diệt, thì chúng sinh sinh ra từ thai sinh, noãn sinh, và thấp sinh sẽ chuyển đổi nhau sử dụng sức mạnh giết hại nhau để làm thức ăn, điều này xuất phát chủ yếu từ tâm tham của mình giết hại sinh mạng. Vì vậy, nếu có một người nào giết một con cừu hay một con vật khác để ăn thịt, thì con cừu ấy sẽ tái sinh lại làm con người, và con người ấy sau khi chết tái sinh lại làm con cừu để trả nợ cũ của mình” [13]

Tất cả giáo lý của đức Phật hoàn toàn thực tế rất quan trọng đối với nhân loại rằng: Con người trên trái đất không có tội lỗi nào lớn hơn giết hại sinh mạng, và cũng không có nguồn tích lũy công đức nào hơn đó là bảo vệ mạng sống của chúng sinh. Chúng ta cố gắng giải cứu mạng sống của chúng sinh đang gặp hoàn cảnh nguy hiểm là chúng ta tiến xa một bước đang thực hành từ bi, cứu vớt sự khổ đau của chúng sinh là tâm hạnh lợi tha của Bồ-tát [14]

Vì lòng từ bi nghĩa là chia sẻ khổ đau cùng với tha nhân và bản chất của từ bi là để quán sát sự đau khổ của tất cả chúng sinh.

Theo truyền thống Phật giáo Đại thừa luôn đề cao lý tưởng Bồ tát thực hành sáu pháp Ba-la-mật (bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định và trí tuệ) để bước vào quả vị Phật. Trong Kinh điển Bát-nhã, thì trí tuệ (Bát nhã ba la mật) được xem là nhân tố quan trọng nhất, nó bao trùm với năm pháp ba-la-mật còn lại.

Nếu hành giả tu hành thiếu trí tuệ thì không hoàn thành quả vị Phật, khác nào như người mù đang đi về một phương trời vô định, sẽ gặp rất nhiều chướng ngại, chông gai và không về đến đích

Do đó Bồ tát Shāntideva nói rằng; “sự yếu đuối của một vị Bồ-tát rất tai hại vì một khi phạm lỗi, Bồ-tát sẽ làm liên lụy đến sự giải thoát của vô lượng chúng sinh

Ngoài Lục độ và Tứ vô lượng tâm, Bồ-tát còn hành trì Tứ nhiếp pháp để nhiếp hóa mọi người, Tứ nhiếp pháp bao gồm:

Bố thí (Dāna) là sự cứu giúp chúng sinh trên phương tiện vật chất cũng như tinh thần, không có nhu cầu tư lợi, bố thí vật chất giúp con người thoát khỏi trong lúc đói khổ trong đời này. Bố thí pháp là cứu giúp chúng sinh đời sống tinh thần tu hành giải thoát sinh tử

Ái ngữ (piyavācā) là lời nói chân thật, hòa nhã mang lại lợi ích cho mọi người tránh gây xung đột, thù hận

Lợi hành (atthacariyā) vì lòng từ bi làm lợi ích cho mọi người, và xây dựng xã hội chân thiện mỹ

Đồng sự (samānattatā) là hòa đồng vào mọi người và mọi hoàn cảnh để cứu độ chúng sinh thoát khổ đau

Bồ-tát dùng trí tuệ nhìn thấu khắp nỗi khổ chúng sinh, Bồ-tát vì lòng từ bi cao thượng vận dụng hết mọi khả năng của mình để cứu độ chúng sinh thoát khỏi khổ đau, Đại thừa gọi là vô công dụng hạnh (anābhoga) chính vì từ bi và trí tuệ giúp Bồ tát đạt đến tâm vô phân biệt.

Như DT. Suzuki trích dẫn tác phẩm; “Bồ đề tâm” của ngài Long-Thọ (Nāgārjuna): “tính chất thiếu yếu của Bồ tát là tâm đại từ bi (Mahākaruṇācitta) và tất cả chúng sinh là đối tượng tình thương yêu của Bồ tát.” [15]

Vì vậy trong luận Du già sư địa nói rằng; nếu các hành giả Bồ-tát nuôi lớn những hạt giống phẫn nộ, sân hận, do đó nhân duyên phát khởi ra miệng nói những lời thô tục, do sự phẫn nộ ấy tay cầm đao, trượng, gây hại, hoặc làm phiền não đến chúng sinh thì hành giả Bồ-tát đó, trong tâm hủy hoại công đức tu hành. [16]

Trong Thập địa kinh luận một tác phẩm rất quan trọng trong Phật giáo Đại thừa nói rằng; một vị Bồ tát không được sử dụng vũ khí bất kỳ hình thức nào, không hận thù và không được giết hại sinh vật, thậm chí ngay trong tư tưởng,tinh thần bất bạo động (ahiṃsā) là một phẩm hạnh cao quý nhất của Bồ-tát nhằm kiêng cữ gây tổn hại đến chúng sinh. [17]

Bất bạo động là sức mạnh của tinh thần, tâm lý học nói tinh thần bất bạo động có thể diễn tả trong tinh thần của từ bi, mọi người thực hành ahiṃsā thì hầu hết là những người yêu quý cuộc sống của mình và không muốn gây tổn thương hay giết hại đến người khác, sự cảm nhận của tình thương yêu được truyền từ trong tư tưởng của người khác. Vì vậy, lòng từ bi là để bảo vệ sự sống đã được nhiều người ủng hộ và thực hành

Có vài trường hợp ngoại lệ giết người vì lòng từ bi, như trong Kinh phương tiện thiện xảo có ghi lại rằng: tiền thân của đức Phật khi còn là một vị Bồ-tát đã giết tên cướp cứu 500 vị thương gia [18]

Trong trường hợp này chúng ta phân tích nhiều khía cạnh:

1. Nếu vị Bồ-tát đó báo tin cho những người thương buôn biết có cướp, thì chắc chắn những người thương buôn sẽ bạo động giết hại tên cướp để bảo vệ mạng sống của mình, thì những người thương buôn này kiếp sau phải trả quả báo vào địa ngục về tội giết người.

2. Nếu vị Bồ-tát giữ im lặng thì tên cướp sẽ giết 500 thương buôn, thì ác nghiệp càng sâu nặng, sau khi chết tên cướp phải trả quả báo sẽ rơi vào địa ngục.

3. Bồ-tát nghĩ rằng trong khi tên cướp chưa giết người tạo ác nghiệp, giết hắn thì sẽ hóa giải nghiệp báo ân oán nhân quả giữa tên cướp và 500 người thương buôn, đồng thời cũng giúp tên cướp và 500 người thương buôn không mang tội sát sinh, không rơi vào Địa ngục.

Trong trường hợp này là theo lý tưởng đại từ bi của Bồ-tát trong ý nghĩa phương tiện thiện xảo giết một người cứu 500 người. Bồ-tát tự mình gánh chịu hậu quả vi phạm giới sát. Nhưng động cơ giết hại không phải hận thù, lòng tham, tư lợi mà xuất phát từ động cơ tích cực, từ trái tim từ bi vị tha, lân mẫn luôn nghĩ đến nỗi khổ của chúng sinh, Bồ-tát phải gánh chịu nỗi khổ của tha nhân về cho mình

Từ bi trong Phật giáo Đại thừa luôn gắn liền với trí tuệ, Bồ tát luôn phát triển trí tuệ (Bát nhã ba-la-mật) để đảm bảo cho hành động từ bi thích hợp và hiệu quả, không ngấm ngầm tư lợi, và trí tuệ ấy được xây dựng dựa trên lý tưởng của Tánh không (Śūnyatā).

“Trời không cánh nhạn bay qua
Bóng in đáy nước xóa nhòa một khi
Nhạn không để dấu làm chi
Nước không giữ bóng bởi vì vô tâm”

(Thiền sư: Hương Hải)

Như trong tác phẩm Bodhi-caryāvatāra của ngài Śāntideva “nhận thấy rằng tất cả chúng sinh đều bình đẳng trong sự mong cầu hạnh phúc và tránh xa đau khổ, vì vậy bảo vệ người khác cũng như bảo vệ cho chính mình” [18]

Trí tuệ siêu việt của Bồ-tát luôn nhận thức rằng trong thế gian, con người sở dĩ khổ đau là do họ lấy huyễn làm chơn, lấy giả làm thật, nguồn gốc của khổ đau là do tham ái, vô minh. Vì thế hành giả thực hành tinh thần Bồ-tát đạo cần phải thực tập thiền định để tuệ giác hiển bày dứt trừ phiền não chướng, mây tan mặt trăng hiển hiện. Bồ-tát luôn dùng trí tuệ bát nhã soi đời mình nhìn thấy các pháp vốn vô thường, khổ, không, vô ngã.., và dùng từ bi để hóa giải mọi thù hận

Vì thế trong Kinh điển Đại thừa và tất cả tư tưởng của Phật giáo dựa trên từ bi, những lời Phật dạy có thể hiện qua hai câu nói: “bạn phải giúp đỡ người khác” (toàn bộ giáo lý Đại thừa). “Nếu không thực hiện được, bạn không nên gây tổn hại đến người khác” (toàn bộ giáo lý Hīnayāna or Theravāda)

Giáo lý của hai truyền thống đều dựa trên lý tưởng từ bi, một người Phật tử nếu bạn không đủ khả năng giúp đỡ người khác, ít ra bạn không nên gây tổn hại đến người khác [19]

Bồ tát luôn an trú chánh niệm thanh tịnh trong từng bước chân nhập thế cứu độ chúng sinh, chỉ lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Trong kinh Bát-Đại-Nhân-Giác nói về sự nghiệp của Bồ-tát: “luôn luôn biết đủ, sống thanh bần để giữ đạo, chỉ lấy trí tuệ làm sự nghiệp” [20]

Trí tuệ như là một kim chỉ nam cho hành giả luôn nhận thức rằng dục vọng con người không bao giờ biết đủ và dừng lại, “lòng tham vô đáy” vì lòng tham dục vọng này con người gây nên bao tội ác, giết người cướp của, tà dâm,..

Chính vì dục vọng của tâm tham này dẫn đến bạo động trong cuộc sống làm mất đi tính cân bằng xã hội, và nền hòa bình thế giới. Chúng sinh càng gây tội ác thì trái tim từ bi của Bồ-tát càng đau quằn quại vì lòng thương xót.

Tình thương của Bồ-tát đối với chúng sinh không giống như những thứ tình cảm bình thường ở xác thịt, bởi vì tâm từ bi của Bồ tát luôn mang tính vị tha, vô vị kỷ và xả ly (từ, bi, hỷ, xả) trong Phật giáo Đại thừa ngài Quan Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara () được biểu trưng cho bản thể tâm từ bi, ngài Văn-thù-sư-lợi (zh. 文殊師利, sa. Mañjuśrī) biểu trưng cho trí tuệ bát nhã, đại trí và đại bi la tổng thể của lý tưởng Đại thừa, để Bồ-tát vào đời độ sinh

Bồ-tát vì lòng từ bi vô biên không hướng đến Phật đạo, các Ngài không muốn thành tựu cứu cánh lý tưởng của riêng mình, Bồ-tát phát nguyện tinh thần nhập thế chăm lo niềm hạnh phúc an lạc cho chúng sinh như Địa Tạng Bồ Tát “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sinh độ tận, phương chứng Bồ-đề” có nghĩa là “Địa ngục chưa trống không, tôi thề không thành Phật; chúng sanh độ hết rồi, tôi mới chứng Bồ-đề”. Khi đức Phật hỏi ngài Địa Tạng đã bạch Phật rằng: “Con ở trong cõi đời xấu ác này độ sanh, nhưng vẫn cảm thấy an lạc như đang an trú trong cảnh giới Niết Bàn.”

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.