Từ bi và tinh thần bất bạo động theo truyền thống Phật giáo Đại thừa

Tinh thần nhập thế của Bồ tát đạo nhằm hóa độ thế gian theo khuynh hướng chí thiện, con người biết tránh xa nghiệp bất thiện, lòng ích kỷ, cái nhìn phiến diện. Một thi hào người Anh đã viết ra những dòng thơ rất đẹp đẽ và thâm thúy có nhiều ý nghĩa:

“Tôi nhìn anh tôi qua kính hiển vi của sự “chỉ trích”
và tôi nói. “Anh tôi quả thật thô lỗ!”
Nhìn anh tôi qua kính viễn vọng của sự “khinh bỉ”
và tôi nói. “Anh tôi quả thật bé nhỏ thấp hèn”
Rồi tôi nhìn vào “tấm gương chân lý”
Và tôi nói, “Anh tôi thật giống hệt như tôi.”

“Trong con người tốt nhất cũng có những khuyết điểm, mà trong con người xấu nhất cũng có những điểm tốt. Tại sao ta chỉ nhìn phần xấu xa tội lỗi mà không để ý đến phần tốt của người? Nếu mỗi người đều nhìn vào phần tốt đẹp của nhau, nhân loại đã tìm được nguồn hạnh phúc dồi dào” [21]

Con người biết thay từng giọt máu hận thù trong tim bằng giọt máu từ bi để rồi từ đó con người biết yêu thương, gắn bó, biết san xẻ cho nhau những nỗi niềm vui, khổ…

HT Thích Nhất Hạnh nói rằng: “tính chất từ bi như là một là một trang web, khi chúng ta phát triển các khía cạnh liên quan đến Bồ Đề tâm, hành động từ bi khi chúng ta thực hành tham gia tích cực với khổ đau trên toàn thế giới, đáp ứng những như cầu cho chúng sinh trong bất cứ hoàn cảnh nào chúng ta có khả năng.”[22]

Mỗi người tự nhận thức biết sống hạnh phúc an lạc cho chính bản thân mình, không còn thù hận chém giết lẫn nhau, tạo nghiệp ác, tức là đã biết xây dựng sự tồn tại giá trị nhân bản đạo đức con người chuẩn mực cho nhân loại.

Tự tại tiêu dao suốt tháng ngày
Tùy duyên phóng khoáng cõi trần ai
Rửa sạch lòng trần đầy ô uế
Cuộc đời chi sá bận tâm đâu

Trong lịch sử của đại đế Asoka (vua A-Dục) vào thế kỷ thứ III tr CN. [23]

Sau những cuộc chinh phạt đẫm máu của mình, đại đế Asoka cảm thấy kinh hoàng và hối hận, chính giáo lý của đức Phật đã chuyển hóa cuộc đời của vua Asoka với những chiến thắng quân sự, vũ khí thay bằng chiến thắng đạo đức tâm linh. Sau đó vua Asoka thực hiện tinh thần bất bạo động thực hành theo năm giới, dưới sự cai trị của đức vua Asoka hoàn toàn đã thay đổi chính sách cai trị điềm đạm ôn hòa, từ bỏ lối tra tấn, không bạo lực, dân chúng được che chở mà ngay cả thú vật cũng được bảo vệ, Asoka ra lệnh cấm săn bắn, nhà vua còn kiêng cữ ăn thịt khuyến khích dân chúng ăn chay, ngoài ra nhà vua còn làm nhiều việc phúc lợi cho xã hội cất nhà cho người lữ hành nghỉ chân, xây dựng bệnh viện, các khu an dưỡng, cấp thuốc trị điều dưỡng cho những tù nhân.[24]

Với xu hướng hiện nay các nhà chính trị gia họ luôn có cái nhìn tiêu cực, chính trị là phải dùng thủ đoạn mưu mô, dùng vũ khi chiến tranh làm mục tiêu cho hòa bình. Vì vậy họ trang bị những vũ khí hạt nhân, và những vũ khí tối tân làm phương tiện chiến tranh cho rằng bảo vệ hòa bình. Nhưng thực tế chiến tranh xảy ra bom đạn sẽ gây chết chóc, khủng hoảng tinh thần, bệnh tật,…cho nhân loại.

Vì vậy vấn đề hòa bình thế giới trở thành một mối quan tâm của bao tâm hồn nhân ái, mỗi ngày luôn cầu nguyện hòa bình, chiến tranh đừng xảy ra

Thực trạng hiện nay nhiều cường quốc tranh đấu cho hòa bình bằng cách bỏ ra hàng tỷ USD để trang bị vũ khí tối tân nhằm bảo vệ đất nước, trong khi đó hơn một nửa dân số thế giới lâm vào cảnh nghèo nàn đói khổ. Chính vì sự phân hóa sự giàu nghèo, trong cơ chế kinh tế, là mầm mống tạo ra bạo động xã hội, chiến tranh..

Vì thế các nhà lãnh đạo hòa bình luôn kêu gọi các quốc gia hãy giải quyết tranh chấp bằng phương pháp ngoại giao, thương lượng với nhau tạo mối quan hệ tốt đẹp cho hai bên, tránh xa xung đột chiến tranh vũ trang. Tinh thần bất bạo động ấy được đề cập trong những lời Phật đã khởi xướng: “chiến thắng sinh thù hận, thất bại chuốc khổ đau.” Hoặc trong Kinh pháp cú đức Phật dạy:

“Tự thắng tốt đẹp hơn
Hơn chiến thắng người khác.
Người khéo điều phục mình,
Thường sống tự chế ngự”.
“Dầu tại bãi chiến trường,
Thắng ngàn ngàn quân địch
Tự thắng mình tốt hơn
Thật chiến thắng tối thượng”.

(Pháp cú 104-103)

Nếu một nhà chính trị thực hành theo lời đức Phật đã dạy thiết lập một xã hội hùng mạnh, hưng thịnh, không có chiến tranh bạo động, , theo bảy nguyên tắc sau:

(1) Sinh hoạt dân chủ,

(2) Tình đoàn kết dân tộc,

(3) Nguyên tắc pháp trị,

(4) Sự hòa hợp các thế hệ,

(5) Tôn trọng phụ nữ,

(6) Tôn kính các tín ngưỡng,

(7) Ưu đãi các bậc minh triết. [25]

Theo Đức Đạt Lai Lạt Ma cho rằng; “với tâm niệm tốt, thành thật thì chính trị có thể thành công cụ tốt phục vụ cho xã hội, khi bị thúc đẩy bởi lòng ích kỷ, bởi hận thù, giận dữ và ghen ghét thì chính trị sẽ trở thành sơ bẩn” [26]

Ngài Long Thọ (Nāgārjuna) đã vạch ra đường hướng cai trị đất nước dựa trên bốn nguyên tắc sau:

(1) Việc chuyển hóa tâm thức và đổi mới xã hội không thể tách rời nhau

(2) Vai trò tối hậu của cá nhân trong hành trình giác ngộ là điểm then chốt của đạo đức chính trị

(3) Việc truyền bá chánh pháp tạo cơ hội mọi người tu học thành tựu giác ngộ là yêu cầu quan trọng của nhà lãnh đạo

(4) Nhà lãnh đạo phải tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu kinh tế của mọi người để họ có thời giờ tu học và hành trì chánh pháp, Ngài còn vạch ra một chương trình cụ thể và chi tiết về an sinh, kinh tế xã hội y tế và giáo dục rất nhân bản và tiến bộ [27]

Ngoài ra ngài Long Thọ còn đề ra 10 phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho vị Vua để cai trị đất nước: Vua phải thực hành tinh thần bất bạo động, cấm giết hại sinh mạng (ahiṃsā), cấm trộm cướp, cấm tà dâm, kiểm sóat lời nói của mình, tránh vu khống, triệt để từ bỏ lòng tham, sân, và tránh giải trí những thứ sai trái, kiêng cữ say rượu,… dẫn đến một vị vua chân chính, Ngài khuyến khích vua thực hành những phẩm chất đạo đức ở trên thì vua sẽ được niềm tin đối của thần dân, còn nếu đi ngược lại những quy tắc ấy làm mất niềm tin của thần, dân,.[28]

Trong thế kỷ 21 HT Thích Nhất Hạnh được thế giới xem như một nhà lãnh đạo tinh thần bất bạo động, Ngài luôn kêu gọi, khuyến khích mọi người tham gia vào các hoạt động hòa bình, bằng cách, chuẩn bị trước phát triển nhận thức và giữ chánh niệm để thực hành cho hòa bình trong mọi ứng xử một cách bình tĩnh, thông minh trong mọi phương pháp bất bạo động, trong đó thực hành bất bạo động là điều kiện tiên quyết đối với những người làm công việc xây dựng hòa bình và giáo dục. [29]

Thiền sư Nhất Hạnh được thế giới vinh danh là người vận động cho những giải pháp hoà bình trong chiến tranh Việt Nam và sau biến cố 11/9/2001 đã thỉnh cầu Hoa Kỳ dùng ngoại giao thay vũ khí ở Afghanistan và Iraq

Khi nào con người trên trái đất này biết nhận thức tinh thần vị tha, biết tôn trọng sự sống, và tin lời Phật dạy trong mỗi chúng sinh đều có Phật tánh, có khả năng thành Phật, hình ảnh Bồ tát Thường Bất Khinh trong Kinh pháp hoa luôn nhắc nhở chúng ta biết tôn trọng người khác, Mọi người bình đẳng nhau trong dòng máu đỏ, nước mắt cùng mặn, ai cũng ham sống sợ chết, chà đạp lên sinh mạng của kẻ khác đó là sai nguyên tắc đạo đức làm người.

“Giết hại mạng sống của chúng sinh là hành động đáng hổ thẹn và sai lầm bởi vì nó làm tổn hại lòng từ bi, cho nên khi nào chúng ta thực hành tinh thần bất bạo động mới cảm nhận được tình thương và đạt được hạnh phúc miên viễn. Bởi vậy, “bất kỳ nơi nào có từ bi trong trái tim thì nó sẽ biểu hiện ra ngoài tinh thần bất bạo động.” [30]

Đức Phật là bậc Tuệ giác chỉ rõ chúng ta thấy rằng chính ba độc tố: tham, sân, si là nguồn gốc của tội ác, và nguyên nhân bạo động, tạo nên khổ đau cũng đều xuất phát từ ba độc tố này [31].

Chính vì vậy đạo Phật luôn lấy trí tuệ làm sự nghiệp, như là dùng một thanh gươm thật bén để tiêu diệt kẻ thù “vô minh.” Hàng phàm phu bị vô minh che lấp ánh sáng trí tuệ, tâm lý bệnh hoạn, yếu đuối, họ cứ mải mê chạy theo tiếng gọi của tâm thức của trần tục tìm cầu dục lạc thân xác, quên đi vấn đề sinh tử đại sự. Bồ tát Shantideva nói rằng;

để có thỏa mãn nhục dục, có người tham của tự bán mình để cầu dục lạc nhưng không bao giờ ý thức vì phải luôn hầu hạ kẻ khác, có người vì mưu sống xung vào quân trận bất chấp tánh mạng hiểm nguy, Họ muốn vinh quang nhưng lại chịu cảnh tù đày, những kẻ nô lệ cho ái dục thường lâm vào cảnh khốn cùng, nếu được thỏa mãn thì cũng không hơn gì con trâu kéo cày được thưởng vài cộng cỏ” [32]

Nhưng để có được trí tuệ diệt trừ vô minh, Bồ-tát đã gieo trồng hạt giống Bồ đề tâm vào mảnh đất chân thể, nhờ vào chất liệu từ bi, và hạnh nguyện thì hạt giống ấy sẽ nẩy mầm, đâm chồi và sẽ sinh ra hoa trái trí tuệ.

Tóm lại, Phật giáo truyền bá vào mỗi quốc gia bằng một thái độ ôn hòa, bất bạo động với tinh thần từ bi, trí tuệ, trong suốt hơn 25 thế kỷ qua, Phật giáo chưa bao giờ mở ra cuộc thánh chiến, chưa bao giờ có giọt máu đổ xuống để vun bồi cho sự hưng thịnh của Phật giáo. Phật giáo chỉ mở ra cho chúng sinh con đường hướng thiện, giúp cho con người sống đúng theo quy tắc đạo đức làm người, và xây dựng xã hội văn minh lành mạnh đóng góp cho vấn đề hòa bình thế giới.

Vì vậy Tiến sĩ K. N. Jayatilleke nói rằng: “Chính nhờ lòng từ bi mà Phật giáo đã được truyền bá khắp một vùng rộng lớn ở Châu Á một cách êm đẹp, không bao giờ có sự can thiệp của vũ lực hay uy thế chính trị, không một giọt máu nào phải đổ trong khi truyền giáo; không một cuộc chém giết nào xảy ra nhân danh Đạo Phật, hay nhân danh Đức Thế Tôn, thật là hãnh diện biết bao!”

Trí Giải

http://www.banhoangphaptw.com

_____________________________

Chú thích:

[1] xem 律比丘戒,T22n1429, p.1015a19.

[2] xem 四分比丘尼戒本 T22n1431,p.1031a03.

[3] xem 沙彌十戒,T24n1471, p. 926b08. Và 沙彌尼戒,T24n1474, p. 937a13.

[4] xem 佛説優婆塞五戒相經,T24n1476, p. 939c15. & xem D. Keown, Buddhist Ethics A Very Short Introduction, Oxford University Press 2005 p. 9.

Xem: B. Lokhande, “Unique Contribution of Buddhism to The World Culture” K. Sankarnarayan (ed) Contribution of Buddhism to world Culture, Somaiya Publishcation 2004 Vol.I. pp. 154-155.

[5] Xem Thập thiện giới kinh 十善戒經 T24n1486 trang 1023a15.

[6] Phạm võng kinh: 梵網經 T24n1484 trang1004b11:

[7] Tiếp theo T24n1484 trang.1006a01:

[8] HT:Thánh Nghiêm, Cương Yếu Giới Luật, TN Tuệ Đăng dịch Nhà xuất bản Thời Đại 2010 Thiên thứ bảy: Bồ Tát Giới Cương Yếu, Chương III Giới trọng và Giới Khinh của Bồ Tát Giới

[9]佛言。佛子。若自殺教人殺方便讃歎殺,見作隨喜。乃至呪殺。殺因殺縁殺法殺業。

[10]若佛子。不得畜一切刀杖弓箭鉾斧鬪戰之具。及惡網羅殺生之器。一切不得畜。而菩薩乃至殺父母尚不 加報。況餘一切衆生。若故畜一切刀杖者。犯輕垢罪 T24n 1484 trang 1005c14-17

[11] W. Donner, “The Bodhisattva Code and compassion: A Mahāyāna Buddhist Perspective on Violence and Non violence”, D. Allen (ed)Comparative philosophy and Religion in Times of Terror, p. 123

[12] Tiếp theo., p75.

[13] The Śūraṅgama Śūtra (Leng Yen Ching), C. Luk (tr.) pp. 90-91

[14] C. Rinpoche, “The Benefits of Saving the Lives of Other Beings” (ed) with commentary by Z. Larson, Compassionate Action The teachings of Chatral Rinpoche, pp 43-44

[15] G.S.P. Misra, Development of Buddhist Ethics, p. 28.

[16]若諸菩薩長養如是種類忿纒。由是因縁不唯發起麁言便息。由忿蔽故加以手足塊石刀杖。捶打傷害損惱 有情。内懷猛利 忿恨意樂 xem luận Du già sư địa 瑜伽師地論 T30n1579 trang 515b28-30

[17]H. Dayal, The Bodhisattva Doctrine in Buddhist Sanskrit Literature, p. 199

[18]xem P. Harvey, An Introduction to Buddhist Ethics Cambridge: Cambridgre University Press, 2000 p 135.

[19]The Dalai Lama A Policy of Kindness, S. Piburn (comiled and ed) Motilal Banarsidass Publishers 2002. p. 82

[20] 弟 三 覺 知, 心 無 厭 足, 唯 得 多 求, 增 長 罪 惡, 菩 薩 不 爾, 常 念 知 足, 安 貧 守 道, 唯 慧 是 業.

Kinh Bát Đại Nhân Giác.

[21 ] Đức Phật và Phật Pháp, Narada, Phạm Kim Khánh dịch NXB TPHCM, 1998 phần (Tứ vô lượng tâm)

[22] J. Goldstein, One Dharma the emerging western Buddhism, p.124

[23] I. M. Ghosh, Ahiṁsā Budhist and Gandhian, p. 58.

[24] N. Fujii, Buddhism For World Peace, Y. Miyazaki (tr) Sterling Publisher 1997.

[25]長阿含經, T1n1, p. 11a8. xem Dīgha-Nikāya. II.79. M. Walshe (tr.) The Long Discourses of the Buddha. p 231

[26] Đức Đạt-Lai Lạt-Ma. Nói Về Sự Nóng Giận, Hoang Phong chuyển ngữ

[27] Xem Đức Phật và Phật Pháp, Narada, Phạm Kim Khánh dịch NXB TPHCM, 1998

[28] V.V.S. Saibaba “Contribution of Buddhist Ethics and State Craft to World Culture, K. Sankernarayan (ed) Contribution of Buddhism to World Culture, Somaiya Publication 2004 p. 261.

[29] Thich Nhat Hanh. “Ahiṃsā: The Path of Harmlessness.” In David W. Chappell, ed. Buddhist Peacework: Creating Cultures of Peace. Boston, MA: Wisdom Publications. 1999, p. 159

[30] K. T. S Sarao, Origin and Nature of Ancient India Buddhism Department of Buddhist Studies University of Delhi 2002 p. 77.

[31] N. H, Buddhism: “Relevance for Social Uplift Spiritual Progress and Peace in the New Millennium” K. Sankanarayan (ed) Buddhism In Global Perspective , Somaiya Publishcation 2003, Vol. II p. 58.

[32] Tăng Già Việt Nam, Thích Trí Quang, Thích Chơn Thiện, PL 2537

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.