Người Xuất Gia

ĐẠI CƯƠNG CỦA CÁC HỆ THỐNG GIÁO-LÝ

Mọi sự tương quan cần thiết đã nhận thức rồi, ta phải bước vào đại cương của ba hệ thống giáo lý trên.

1.- Đại cương của hệ thống “Giáo lý chung thông của năm thừa.” __ Tức 5 cấm giới và 10 thiện-nghiệp thiết lập trên cơ bản, trên mục đích “ba qui y”.

Năm cấm giới của nhân thừa có hai phần:

Một, đình chỉ tánh tội, tức bốn giới trước, năng lực của nó là tiêu diệt sự tàn sát, sự cướp lột, sự gian dâm, sự lừa láo; những tội ác mà thế gian sinh ra là đã có và thế gian đại loạn vì nó.

Hai, đình chỉ giá tội, tức giới thứ năm, năng lực của nó là giữ thăng bằng cho tâm lý trước sự say sưa để khỏi sa vào 4 tánh tội. Thế giới loạn là loạn từ tâm lý con người, thế giới mất thăng bằng là mất thăng bằng từ tâm lý con người ấy. Nên giáo lý 5 cấm-giới chứng tỏ rằng muốn cải tạo xã-hội thì phải cải tạo con người; đưa con người ra khỏi cái loạn, cái mất thăng bằng của nó thì luôn theo đó, thế giới con người cũng chấm dứt sự đại loạn, sự vô tổ chức. Và con người cũng như thế giới của con người sẽ được xây dựng với những điều kiện lành mạnh từ trong đến ngoài, từ gốc đến ngọn, trong mặt tích cực của 5 cấm-giới là bảo vệ lẫn nhau, tương trợ cho nhau, thanh khiết như nhau, thành thực với nhau và soi sáng cho nhau.

Còn mười thiện-nghiệp của thiên-thừa thì có 3 phần: Ba thứ đầu đình chỉ sự tàn sát, sự trôïm cướp, và sự gian dâm của thân thể; bốn thứ giữa đình chỉ lời nói dối trá, lời nói thêu dệt, lời nói ly gián, lời nói thô ác của miệng lưỡi; ba thứ sau đình chỉ lòng tham lam, lòng sân giận, lòng si mê của tâm ý. Pháp tu để đạt đến phước lạc chư thiên, ngoài 10 thiện-nghiệp này có pháp ly dục (để đạt đến sắc giới) và pháp ly thân (để đạt đến không giới) nữa, nhưng chỉ là chi tiết đi sâu một chút của 10 thiện-nghiệp. Tuy vậy, đạt đến phước lạc chư thiên là kết quả thấp nhất của 10 thiện-nghiệp thô sơ, nên nói 10 thiện-nghiệp là thiên-thừa mà thôi; chứ 10 thiện-nghiệp sâu rộng thì chính là cơ bản của tất cả, việc ấy lại là một phương diện khác.

Giáo-lý chung thông của năm thừa tức 5 cấm-giới của nhân-thừa và 10 thiện-nghiệp của thiên-thừa trên đây chứng minh một giáo lý quan trọng: Hành vi là nguyên động lực của sự sống. Sự sống có ra và có sai biệt là do hành vi. Giáo lý này một mặt chứng tỏ sự sống khổ do hành vi ác gây ra, sự sống vui do hành vi thiện kết quả, một mặt chứng tỏ sự sống ấy lại do hành vi cải tạo. Nên muốn hết khổ thì đừng làm ác, mưốn vui sướng thì phải lo làm điều thiện. Chỉ có lý thuyết hành vi là nguyên động lực của sự sống đó mới được nói một cách to lớn rằng tương lai đời ta ở chính trong tay của ta. Lý thuyết này thuật ngữ thường gọi là nhân quả luân hồi . Mục đích của nó cốt để cho người ta đừng ỷ thị vào thượng đế, đừng đổ trách nhiệm cho hoàn cảnh mà phải nhìn vào hành vi của mình, chính hành vi của mình đã tạo ra tất cả những gì của sự sống mình có. Không những như vậy, lý thuyết nhân quả luân hồi còn chứng minh và khuyến khích ta lọc sạch ngã chấp cho hành vi thanh tịnh thì sự sống sẽ giải thoát luân hồi.

2.- Đại cương của hệ thống “Giáo-lý chung thông của ba thừa.” __ Tức 4 đế lý của thanh-văn thừa và 12 nhân duyên của duyên-giác-thừa.

Đại cương 4 đế lý là thế này: Sự sống là “Khổ” bởi vì sự sống ấy chỉ là thức, danh sắc, lục nhập, sinh, lão tử kết hợp mà liên tục. Khổ ấy nguyên nhân là “Tập” tức do vô minh, hành, xúc, thọ, ái, thủ, hữu kết hợp mà phát sinh. Nếu tập, nguyên nhân của khổ đã “Diệt” thì khổ, kết quả của tập, cũng không còn: sự diệt tận không còn đó là niết-bàn. Nhưng muốn thật hiện niết-bàn, thì phải thực hành phương pháp diệt khổ, phương pháp ấy gọi là “Đạo”. Bởi vậy bốn đế lý là:

Khổ __ thực trạng của khổ;

Tập __ nguyên nhân của khổ;

Diệt __ nguyên nhân của khổ tiêu diệt;

Đạo __ phương pháp tiêu diệt nguyên nhân của khổ.

Phật-đà đưa ra giáo-lý này cũng như ông thầy thuốc tìm ra.

– Bịnh,

– Nguyên nhân của bịnh,

– Nguyên nhân của bịnh hết,

– Thuốc để trị nguyên nhân của bịnh.

Bởi vậy 4 đế lý tìm vạch được hai hệ thống nhân quả: Hệ thống nhân quả “khổ não phát sinh”, tức khổ (quả) và tập (nhân); và hệ thống nhân quả “khổ não tiêu diệt”, tức diệt (quả) và đạo (nhân).

Đó là giáo-lý 4 đế lý của thanh-văn-thừa. Khuếch trương giáo-lý này ra là giáo-lý 12 nhân-duyên của duyên-giác-thừa. Bởi vậy, giáo-lý 12 nhân-duyên có 2 phần:

  1. Phần “lưu chuyển”, tức hệ thống khổ não phát sinh;

  2. Phần “hoàn diệt”, tức hệ thống khổ não tiêu diệt.

Sánh với 4 đế lý, 12 nhân-duyên nói rõ hệ thống khổ não phát sinh mà ẩn lược hệ thống khổ não tiêu diệt, chứ không có gì đáng phải giải thích thêm về phần đại cương.

Nhưng nếu chỉ phân tích sự sống và nguyên nhân của sự sống ra bằng khổ và tập, hay bằng 12 nhân duyên không thôi, thì sự phân tích ấy đâu khác gì ngoại đạo? Và dù ở 4 đế lý có nói diệt và đạo, hay ở 12 nhân duyên có nói phần hoàn diệt, nhưng nói thế không thôi, không đủ để cắt nghĩa tại sao khổ và nguyên nhân khổ có thể diệt đi được để thật hiện niết-bàn. Do đó, cái tinh túy chánh của Phật-Pháp trong 4 đế lý và 12 nhân duyên là 3 pháp ấn sau đây.

  1. Vô thường,

  2. Vô ngã,

  3. Niết-bàn.

Đau khổ và nguyên nhân của đau khổ vốn chỉ là những hiện tượng mà về thì gian thì do từng giai đoạn liên tục trong khi về không gian, căn bản là do các yếu tố kết hợp: Là hiện tượng do từng giai đoạn liên tục nên chúng vô thường (không có cái thực trong tính cách thì gian), là hiện tượng do các yếu tố kết hợp nên chúng vô ngã (không có cái thực trong tính cách không gian). Nguyên nhân đau khổ sở dĩ gây ra được đau khổ là vì nó vô thường và vô ngã (không thường còn và duy nhất). Đau khổ sở dĩ đau khổ là vì vô thường và vô ngã. Và sau hết, cũng chính đau khổ và nguyên nhân của đau khổ là vô thường và vô ngã nên có thể diệt sạch đi được: sự diệt sạch ấy tức là niết-bàn.

Vô thường, vô ngã, niết-bàn, 3 pháp ấn như vậy là những định lý mà có nó, 4 đế lý và 12 nhân duyên mới là Phật-Pháp. Trái lại, xác nhận khổ đế, vạch ra tập đế, phân tích 12 nhân duyên, nhưng chấp là thường là ngã, là thường còn và duy nhất thì không làm sao nói đến chuyện diệt đi được để đến niết-bàn; nên không có các pháp ấn vô thường, vô ngã và niết-bàn thì khổ đế, tập đế, hay 12 nhân duyên ấy chỉ là thuyết của ngoại đạo. Mà cũng vì vậy, dù có nói diệt đế, đạo đế và phần hoàn diệt của 12 nhân duyên đi nữa, cũng chỉ là lý tưởng suông, không thể thực hiện được và không biết thực hiện do nguyên lý nào.

3.- Đại cương của hệ thống “Giáo-lý đặc biệt của Đại thừa”. __ Tức là giáo lý thực-tướng, giáo lý thuyết minh rõ ràng tánh, tướng và dụng của các pháp, thuyết minh đầy đủ phương pháp thực chứng tánh tướng dụng đó (tức lục độ vạn hạnh), và thuyết minh những kết quả vô thượng sau khi thực chứng tánh tướng dụng (tức đại giải thoát và đại giác ngộ ở Phật quả). Hệ thống giáo lý này có ba phần do cách trình bày có lý do riêng:

  1. Pháp không quán huệ,

  2. Pháp tướng duy thức,

  3. Chân như tịnh đức.

Hệ thống thứ nhất là giáo lý thuyết minh sự thực của các pháp, sự thực ấy là không có tự tánh nếu dùng trí tuệ mà quán sát thấu đáo, nên gọi là “pháp không quán huệ”.

Hệ thống thứ hai là thuyết minh tướng dụng của các pháp, tướng dụng ấy tuy không có tự tánh nhưng chính vì không có tự tánh mà do tâm thức biến hiện có ngàn sai muôn khác, gọi là “pháp tướng duy thức”.

Hệ thống thứ ba thuyết minh các pháp do tâm thức biến hiện ngàn sai muôn khác là vì chân như của tâm thức vốn cụ thể tất cả khả năng vi diệu, nên gọi là “chân như tịnh đức”.

Tất cả hai loại phước đức và trí tuệ của hạnh nguyện Bồ-tát, tất cả hai kết quả đại niết-bàn và đại bồ-đề của quả vị Phật-đà đều thiết lập trên ba hệ thống giáo lý đặc biệt của đại-thừa này. Ba hệ thống giáo lý đăïc biệt của đại thừa này vì những tính chất vĩ đại sau đây nên nó mới là giáo lý chánh của Phật-Pháp, bao gồm tất cả giáo, lý, hạnh, quả của Phật-Pháp; những tính chất ấy là:

  1. Cảnh đại (đối tượng vĩ đại) là thể nhập giáo pháp cao rộng, tức giáo pháp đại-thừa.

  2. Hạnh đại (hành động vĩ đại) là thực hiện hành vi cao rộng, tức tự lợi lợi tha.

  3. Trí đại (trí giác vĩ đại) là giác ngộ toàn thể pháp tánh, tức nhân không pháp không.

  4. Tiến đại (tinh tiến vĩ đại) là nỗ lực thời gian lâu dài, tức ba vô số-kiếp.

  5. Phương tiện đại (khéo léo bực nhất) là không mắc sinh tử mà cũng chẳng ở niết-bàn.

  6. Chứng đắc đại (kết quả vô thượng) là thực hiện tất cả đại giải thoát và đại giác ngộ.

  7. Nghiệp dụng đại (hoạt dụng vô cùng) là cùng tận vị lai, làm tất cả Phật sự độ tất cả chúng sinh.

Nói tóm, tất cả ba hệ thống giáo lý của toàn bộ Phật Pháp đều có giáo, lý, hạnh và quả của nó:

Giáo: sự trình bày.

Lý: tức lý thuyết.

Hạnh: tức phương pháp.

Quả: tức hiệu quả.

Riêng giáo, lý, hạnh, quả của Đại-thừa thì bao gồm tất cả giáo lý của tất cả hệ thống thứ hai và hệ thống thứ nhất, nghĩa là tất cả giáo pháp ở nhân thừa cho đến duyên giác thừa đều bao gồm trong đại thừa, bởi vậy, chỉ có đại thừa mới có hai tính cách của Phật-Pháp: a) do Phật nói ra, b) đi đến Phật quả. Còn 4 thừa dưới (hai hệ thống đầu) chỉ có tính cách thứ nhất mà thôi, có đồng hóa trong chí nguyện của Đại-thừa mới thành viễn nhân của Phật quả được. Bởi vậy, người Xuất-gia đem “chí cầu đại thừa để cứu độ tất cả” thì chỉ qui tâm về đại thừa, tín thọ, học hỏi, nghiên cứu, thực hành giáo pháp đại-thừa mà thôi. Còn trong sự giáo hóa, có vì trình độ họ mà tỉa trong giáo pháp đại-thừa, rút nhân thừa, thiên thừa và thanh văn thừa, duyên giác thừa ra giáo hóa họ đi nữa, ở “ba qui y” cũng phải đem chí nguyện đại thừa mà hướng dẫn họ phát bồ đề tâm mong cầu Phật-quả, để nhờ đó, trong khi những thừa trên vừa đem đến cho họ kết quả tương đương mà lại vừa làm cái viễn nhân đi đến trí giác vô thượng của Phật-đà.

Thực hành đại thừa, con đường ấy có 4 bước mà người xuất-gia cần phải biết và phải kinh quá;

  1. Tín. __ Xác nhận giáo lý đại-thừa là vô thượng,

  2. Giải. __ thể nhập giáo lý đại-thừa ấy,

  3. Hạnh. __ tu tập giáo lý đại-thừa ấy,

  4. Quả. __ đạt đến quả vị Phật-đà.

Nói giản dị, tín ngưỡng, lý giải, thực hành giáo pháp Đại-thừa cho kết quả là đạt đến trí-giác Vô-thượng, và như vậy mới là vừa hiểu, vừa làm, vừa được tất cả đại cương cùng chi tiết của toàn bộ Phật-Pháp.

This entry was posted in Bài Giảng, Phật Giáo. Bookmark the permalink.